Kính tặng huyện Cẩm Xuyên

Cánh đồng này lớn lên tôi đã thấy

Màu cỏ khô bạc trắng đến chân trời

Không một vũng nước bùn trâu mẹp

Những mùa hè không một giọt mưa rơi

Đất rắn lại nứt ra như đá ghép

Đáy ao sâu cũng trắng bệch nhìn trời

Lu nước để chia phần hai bữa khát

Mẹ vẫn gánh từ Kim Tĩnh xa xôi

Trai làng mình phải đâu tài sắc kém

Con gái trăm nơi mượn cớ chối từ

“Trầu làng mô hợp cau khô làng nấy”

Mẹ vẫn ru con, bà ru cháu đến giờ

Tuổi nhỏ sinh ra không quen giày dép

Đêm ngủ xoa chân vào chổi lên giường

Bụt hiện lên trong giấc mơ trẻ đẹp

Cho con sông thần chạy giữa quê hương

Cánh đồng này lớn lên tôi đã thấy

Hạt gạo nâu như sắc áo cha bầm

Giống lúa đã nghìn năm quen đất ấy

Mùa nối mùa hạt giống chẳng lên xanh

Những đời người hiện thân thành giống lúa

Tổ tiên xưa không dễ chọn tên này

“Lúa nhà nghèo” nên chịu kham chịu khổ

Sinh giữa khô cằn hạt thóc lép quắt quay

Bờ mương cũ lớn lên tôi đã thấy

Chạy trước nhà như một sự lãng quên

Thành bãi cỏ tôi đòi trâu lên đấy

Màu cỏ xanh không che kín nổi niềm

Roi giặc Pháp đánh vào phu Kẻ Gỗ

Mãi bây giờ nghĩ đến vẫn còn đau

Không thấy nước chỉ thấy đời đói khổ

Lại tha phương cầu thực bước theo nhau

Kẻ theo thuyền nương thân nhờ sóng biển

Người xách dao vượt núi hướng Xiêm, Lào

Trại ông Bổng, ông Bè đưa tiễn

Những bước đi không biết đến nơi nào

Ném tàn thuốc xuống mô đất trắng

Lũ quan Tây quay ngoắt lắc đầu

Những trận đói và biểu tình căng thẳng

Vờn quanh xe bao nỗi lo âu

Chúng tôi về với ngổn ngang mặt giấy

Kẻ Gỗ đây mà nước chẳng về cho

Những cánh đồng gió lào rang khô cháy

Thoáng hiện lên trăm hướng dậy trống cờ

Sinh ra giữa những cánh đồng như thế

Mang nỗi khát khao của đất mong mưa

Chúng tôi lớn lên dẫu đứa rừng đứa bể

Vẫn chung nhau một nỗi mong chờ

Đã đến rồi ước mơ nghìn năm ấy

Mặt cánh đồng nghìn năm rồi nắng cháy

Đâu cũng xôn xao sắc mặt công trường

Thế trận mới dàn ra trên đất cũ

Đến nơi nào cũng gặp bước cha ông

Quán Kho, Da Du, trống cờ Xô Viết

Ngỡ đến nay còn đỏ dậy trên đồng

Những con cháu của Hưng Nguyên Võ Liệt

Của Nghèn, Nhe, Cầu, Trổ, Choi, Gôi...

Bài thuộc lòng về thơ ca Xô Viết

Bỗng bừng lên trong máu thịt bồi hồi

Người lớp lớp đến công trường Kẻ Gỗ

Bến xe đông gồng gánh đợi suốt ngày

Thị trấn Cẩm Xuyên, hội mở chính là đây

Quân đổ xuống mọc ngay thành lán trại

Giường chõng, nồi niêu trăm thứ mỗi quê nhà

Khoai Mục Bài, sắn Hương Sơn góp lại

Đọt rau mềm thực phẩm cũng chia ra

Xưa Đá Bạc đưa người đi biệt xứ

Rào Cái chia đôi hình núi đứng u buồn

Nơi gặp nhau của bao nguồn nước dữ

Đồng xác xơ sau những trận mưa nguồn

Nay Đá Bạc đông như thành phố mới

Lán công nhân ôm lấy những sườn đồi

Người đã tới và máy xe đã tới

Oan một thời gọi “đá bạc” người ơi

Đá đã về với công ty Ba, Bốn

Đắp đập xây hồ không có đá sao xong

Làm Kẻ Gỗ với tài nguyên Kẻ Gỗ

Viên sỏi vàng cũng xúc dưới lòng sông

Cuộc diễu binh của sức người, sức máy

Từ thượng nguồn đến chín nhánh kênh mương

Bến cát tự thành, C 100, xe ủi

Hàng vạn đôi vai xoay chuyển thế công trường

Những cánh đồng từ buổi đầu theo Đảng

Cờ đỏ bay lên tay búa sát tay liềm

Mặt trận mới trong thế làm ăn lớn

Xe máy lại về với cày cuốc đi lên

Những hạt nước sáng như viên ngọc quý

Rào Cái ơi ngọc chảy mấy nghìn năm

Những cánh đồng lớn lên tôi đã thấy

Tạnh cơn mưa trở lại đất khô cằn

Nay hồ chứa gần bốn trăm triệu khối

Sườn núi nghiêng như máng dựng quanh bờ

“Kẻ Gỗ đây, bao năm đợi tháng chờ”

Lòng vui muốn chia trăm dòng nước chảy

Nước lên đồng trẻ lại cả trời mây

Mây cũng xuống với bầy em bơi nhảy

Trời xanh soi gương mặt mới đất này

Mùa nối mùa chẳng nở thay cây lúa

Hạt gạo nâu như sắc áo cha bầm

Nay các con sẽ mang về giống mới

Hạt gạo quê ta bao thứ trắng ngần

Đất kham khổ nuôi người khôn lớn

Đất nối đời gắn với đất thiêng liêng

Có nghe thấy hỡi nghìn năm đau đớn

Đất quê mình đang hoá đất thần tiên.

Tháng 5/1977

Xuân Hoài