Trong mỗi chúng ta, mỗi khi có dịp đến với Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ sẽ cảm nhận được sự thanh bình giữa mênh mông hồ nước xanh thẳm soi bóng trời mây. Nhưng ít ai biết rằng, nơi đáy hồ sâu thẳm ấy từng có một công trường 723, nơi 34 công nhân quốc phòng đã ngã xuống trong trận bom B52 ngày 07/01/1973, khi đang xây dựng sân bay dã chiến Libi. Thời gian trôi qua, nước hồ dâng lên, nhấn chìm một phần quá khứ đau thương. Nhưng ký ức về những con người kiên cường ấy chưa bao giờ lặng mất. Tại tiểu khu 335, xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh hôm nay, một ngôi đền khang trang được dựng lên như lời tri ân, như chứng tích vĩnh cửu về sự hy sinh thầm lặng mà thiêng liêng. Mỗi cơn gió lướt qua mặt hồ, mỗi con sóng xô bờ vẫn như đang kể lại câu chuyện của họ, những con người đã đi vào lịch sử từ đáy hồ sâu.
“Ra về nhớ mãi con đường
Hai hai chiến lược đổ đầy máu xương
Khi đi chung một con đường
Khi về bạn ở tiếc thương tràn đầy
Linh hồn bạn ở lại đây
Bảo tàng Kẻ Gỗ dựng xây tượng đài
Để cho hôm sớm chiều mai
Đi về bạn có tượng đài tri ân…
Đó là những câu thơ từ tận đáy lòng của bà Lê Thị Kim Nhơn ở phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh viết cho đồng đội trong một lần trở lại thăm chiến trường xưa. Hơn 50 năm đã đi qua, thế nhưng kỷ niệm về những ngày sống, chiến đấu tại công trường 723 ở khe Libi phía tây xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, vẫn luôn đau đáu với những người đã từng sống và chiến đấu tại đây. Nhiệm vụ mở đường 22 chiến lược và xây dựng sân bay dã chiến Libi… những ký ức ấy vẫn không thể nào quên…
Chúng tôi có dịp cùng với một số nguyên cán bộ công nhân, công trường 723 trở lại hồ Kẻ Gỗ, trên con thuyền hành trình vào đền thờ các anh hùng, liệt sỹ đã hy sinh trong trận bom B52 sáng ngày 07/01/1973. Những bước chân tập tễnh của bà Nhơn, bà Lý, Bà Vâm, Bà Liễu… với ánh mắt lệ nhoà. Nhưng có mấy ai biết đến những bước chân này đã từng bạt núi, băng rừng góp sức xây dựng sân bay dã chiến Libi ngày ấy. Giờ đây, “đôi mắt xanh tựa ngọc”, nụ cười cô gái tuổi đôi mươi phơi phới dậy tương lai đã đi vào quá khứ. Những giọt nước mắt lại men theo miền ký ức bi hùng ấy trở về khi gặp lại đồng đội mình. Những câu chuyện sau bao ngày xa cách, tất cả cứ ùa về trong niềm xúc cảm khi nhớ về những đồng đội đã nằm lại Kẻ Gỗ. Với họ những ngày tháng được cùng nhau sống chiến đấu xây dựng sân bay Libi là những ngày tháng vui vẻ, lạc quan và yêu đời nhất của cái tuổi đôi mươi ngày ấy, họ đã hát và làm việc để xua đi cái bóng đen gầm rú trên bầu trời là như thế đó. Bà Lê Thị Kim Nhơn, nhớ lại: “Chúng tôi đang đi làm thì có máy bay quần rú, hắn quần mạnh lắm thế là chúng tôi lại xuống hầm. Thế là tôi nói với mấy đứa ta cùng nhau hát đi, mục đích là để cho tiếng hát hắn át tiếng bom, hắn gầm rú sợ lắm.. thế là bọn tôi hát. “Hà Tĩnh đất lửa quê em, đất anh hùng bền gan chống Mỹ, tuyến đường rộn tiếng xe đi, bao lớp người vui tới ngày mai…” Khi đó phải hát lên để át tiếng bom vì nó quần ở ngầm 14, 15 tiếng máy bay hắn xé tai lắm, nên hát thì hát chứ cũng sợ lắm”.
Một hố bom còn lại trong lòng hồ Kẻ Gỗ
Từ đầu năm 1965, các tuyến đường chạy qua địa bàn Hà Tĩnh ngày đêm bị đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt với mưu đồ cắt đứt quốc lộ 1A và vùng Địa Lợi - Chu Lễ trên đường 15A. Trước tình hình đó, Bộ Giao thông Vận tải chủ trương giành thế chủ động trong vận tải, bằng cách mở thêm các tuyến đường song song để tránh các trọng điểm đánh phá của địch, đồng thời đảm bảo chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam. Cuối năm 1966, đường 22 ra đời. Lực lượng tham gia mở đường gồm 4 đội TNXP với khoảng hơn 6.000 người. Đường 22 có chiều dài 65km, từ Ngã ba Thình Thình (nay thuộc xã Nam Điền, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) đi qua vùng Kẻ Gỗ thuộc xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, chạy qua nhiều xã thuộc huyện Kỳ Anh rồi kết thúc tại huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Hiện nay, một phần đường 22 đang nằm dưới đáy hồ Kẻ Gỗ.
Đến cuối năm 1970, đầu năm 1971, tuyến đường chiến lược 22 hoàn thành và nhận thấy nơi tuyến đường đi qua có một vùng đất bằng phẳng, hai bên được che chắn bởi rừng cây rậm rạp, rất thuận lợi để xây dựng một sân bay dã chiến. Ngày 30/9/1972, 92 công nhân kiến trúc, 36 công nhân xí nghiệp gạch Cẩm Thành, Thuận Lộc được điều động vào công trường 723 ở xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh để xây dựng sân bay dã chiến Libi, do ông Đinh Trương Đôn - Giám đốc xí nghiệp Vôi Đò Điệm làm Đại đội trưởng. Bà Lê Thị Kim Nhơn khi đó là công nhân công trường 723 tham gia xây dựng sân bay Libi nhớ lại: “Hồi đó, việc đào đắp xây dựng sân bay do các đơn vị công binh của Bộ Quốc phòng làm, chúng tôi thì đào hầm xung quanh sân bay, nhặt các gốc cây, rễ cây, còn một số thì sáng ra đi chặt các nhánh cây và các loại cây bụi để ngụy trang sân bay, sau đó đi đào và khơi thông các hệ thống mương thoát nước hai bên sân bay.” Còn đối với bà Nguyễn Thị Liễu đã có một thời tuổi trẻ của mình nơi công trường xây dựng sân bay Libi cho biết: “Hồi đó rất khổ, công việc thì rất vất vả nhưng chị em lại rất thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau không kể ở đâu, dù ở Nghệ An, Hà Tĩnh hay mọi miền thì đều sống một cuộc sống rất vui vẻ yêu thương nhau”.
Chỉ sau gần bốn tháng thi công khẩn trương, công trình này về cơ bản đã hoàn thành, trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống hậu cần, tiếp tế cho chiến trường. Đặc biệt, sân bay này đóng vai trò then chốt trong việc đối phó với chiến dịch “Lam Sơn 719” – một kế hoạch quân sự đầy táo tợn của Mỹ - ngụy với tham vọng thiết lập một “vành đai lửa” kéo dài từ Đèo Ngang sang tận Xê Pôn (Lào), nhằm cắt đứt tuyến chi viện chiến lược của ta vào Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ. Ngay từ những ngày đầu tháng 1/1973, nhận thấy tầm quan trọng của sân bay Libi, không quân Mỹ điên cuồng mở các đợt tấn công hủy diệt. Chúng liên tục trút hàng trăm tấn bom dọc tuyến đường 22, quyết xóa sổ sân bay này khỏi bản đồ chiến sự. Đỉnh điểm của cuộc oanh kích xảy ra vào rạng sáng ngày 7/1/1973. Đúng 2 giờ sáng, ba chiếc B52 bất ngờ xuất hiện trên bầu trời, trút xuống tiểu khu 335, xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên một trận mưa bom dữ dội. Trong phút chốc, cả khu vực chìm trong biển lửa và tiếng nổ rung chuyển cả một vùng rộng lớn. Trận bom tàn khốc ấy đã cướp đi sinh mạng của 34 cán bộ, công nhân quốc phòng thuộc Công trường 723. Họ, những chàng trai, cô gái tuổi đời còn rất trẻ – đôi mươi phơi phới – đã ngã xuống trong đêm tối, để lại bao niềm tiếc thương vô hạn. Những người may mắn sống sót sau trận bom ấy đã chứng kiến đồng đội mình hy sinh ngay trước mắt, một hình ảnh ám ảnh suốt cuộc đời họ. Sự mất mát đau thương đó trở thành một ký ức không thể phai nhòa, nhắc nhở thế hệ mai sau về tinh thần kiên trung, lòng dũng cảm và sự hy sinh cao cả của lớp người đi trước trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Bà Nguyễn Thị Vân, công nhân công trường 723 không khỏi xúc động nghẹn ngào nhớ về thời khắc bi thương đó: “Khi đó nghe hai tiếng của Hà Thị Thanh kêu cứu với, rồi nghe hai tiếng dưới này chết hết rồi, trên này cũng gọi xuống trên này cũng chết hết rồi, còn tôi khi đó bị thương nhưng tự băng bó cho mình sau đó bộ đội đưa đi bệnh viện”. Bà Nguyễn Thị Liễu, nguyên công nhân công trường 723 vẫn nhớ rõ khoảnh khắc đau lòng đó: “Những người không bị thương thì gom những người chết lại với nhau, còn những người bị thương thì tập trung để đưa lên xe của bộ đội đi cứu thương”. Còn đối với bà Trương Thị Lý với một cảm xúc đau thương khi nghĩ về cái ngày đau thương đó, bà không thể kìm được những giọt nước mắt lăn dài trên má: “Cái cảnh đưa chị em lên xe để mong cứu vãn thật là thảm thương, không thể tưởng tượng được, đứt ruột vì quá thương đồng đội mình, người thì kêu chồng rồi cũng chết, người thì chết trong hầm không kéo lên được, thương lắm”.
Sự mất mát đau thương trên tuyến đường chiến lược 22 và sân bay dã chiến Libi này là rất lớn, không biết bao nhiêu máu xương đã đổ xuống nơi đây. Hòa bình lập lại đất nước bước vào giai đoạn xây dựng lại sau chiến tranh. Năm 1976 Hồ Kẻ Gỗ được khởi công xây dựng. Hồ được tích nước và sân bay dã chiến Libi cùng với một phần đường 22 nằm lại dưới lòng hồ. Câu chuyện đã từng có một con đường huyền thoại, một sân bay chiến lược và sự hy sinh máu xương của những người con ưu tú mãi mãi đi vào lịch sử. Năm 2011, miếu thờ các liệt sỹ nơi đây được xây dựng, trở thành nơi để giáo dục lý tưởng cách mạng, tri ân các thế hệ đi trước. Miếu thờ được xây dựng trên vị trí mà 34 cán bộ, công nhân quốc phòng đã hy sinh. Nhưng điều mà mọi người băn khoăn nhất vẫn là không có tên tuổi và ngày tháng hy sinh của họ. Và họ những công nhân năm xưa như bà Nhơn, bà Vân, Bà Lý luôn trăn trở với thế hệ đi trước đã may mắn được gặp những người thế hệ sau như ông Nguyễn Phi Công, một người con được sinh ra ở mảnh đất Cẩm Mỹ, hiện là Phó Giám đốc Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ.
Qua sự kết nối, cung cấp tư liệu của họ, ông Công đã dày công tìm thông tin những người đã hy sinh trong trận bom B52 năm ấy, dù thời gian đã hơn 50 năm qua đi. Sau hai năm tìm kiếm, ông đã tập hợp được danh sách ban đầu về các liệt sỹ đã hy sinh tại đây. Để xứng tầm với một chứng tích lịch sử và hương hồn những anh hùng liệt sỹ đã ngã xuống nơi đây, với tấm lòng tri ân của người con xa quê, Nhà báo Hoàng Anh Minh, Tổng Biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính, mỗi khi sắp xếp được thời gian, anh mời những người bạn, các mạnh thường quân về thăm Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, vào miếu thờ các anh hùng liệt sĩ dâng hương. Chỉ sau một thời gian ngắn, Nhà báo Hoàng Anh Minh và nhiều cá nhân, tổ chức đã quyên góp để xây dựng đền thờ trên diện tích rộng hơn 1ha nơi đây. Giờ đây, đền thờ này đã trở thành điểm nhấn trong quần thể của Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ. Những năm gần đây, Ban quản lý đã và đang nỗ lực để phục hồi, tái tạo, những cánh rừng xung quanh lòng hồ, làm phong phú sự đa dạng về hệ động thực vật nói chung và tạo ra nét riêng trong hành trình du lịch tâm linh ở đây. “Uống nước nhớ nguồn” là đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta, chính vì vậy chúng ta không bao giờ được quên quá khứ. Hy vọng trong thời gian tới nơi đây sẽ được sự quan tâm đầu tư đúng tầm để chứng tích lịch sử này không mãi mãi chìm sâu dưới lòng hồ Kẻ Gỗ.
Nguyễn Sơn Thủy
Hai mươi tuổi ấy …
Tháng 11/1940, trong những ngày tuyệt thực tại ngục tù Lao Bảo, Tố Hữu, nhà thơ thơ tiên phong của thơ ca Việt Nam, đã viết về tuổi hai mươi thuộc thế hệ ông đi làm cách mạng :
Hai mươi tuổi, tim đang dào dạt máu
Hai mươi tuổi, hồn quay trong gió bão
Gân đang săn và thớ thịt căng da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa! (Tố Hữu).
Những câu thơ quá tuyệt vời về tuổi hai mươi thời đó, tuổi đã cùng cả nước chấm dứt ách độ hộ 80 năm của thực dân Pháp, làm nên cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, khai sinh ra nước Việt nam dân chủ cộng hòa, đưa lại nguồn cảm hứng cách mạng chói sáng “Ngực lép bốn nghìn năm trưa nay cơn gió mạnh/Thổi phồng lên tim bỗng hóa mặt trời”.
Tôi thuộc thế hệ tiếp nối sau thế hệ của ông, cùng thời với những liệt sĩ tuổi hai mươi đã đi suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thế hệ chúng tôi có nhiều cái đáng để nhớ. Họ sinh ra trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, có cha mẹ nếu không là Vệ quốc quân, Giải phóng quân thì cũng là dân quân tự vệ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, sản xuất ở hậu phương để đóng thuế nuôi quân… trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ ác liệt và gian khổ để kết thúc bằng chiến thắng “long trời lở đất, mở ra một trang sử mới cho dân tộc, cho phong trào độc lập tại nhiều nước trên thế giới”:
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng (Tố Hữu).
Lực lượng thanh niên xung phong trong kháng chiến chống Mỹ
Lớn lên trong điều kiện được nuôi dưỡng bởi tinh thần yêu nước chảy trong mach máu của gia đình, quê hương, lớn lên khi cả nước có chiến tranh, với ý chí “tất cả vì miền Nam ruột thịt “, bất chấp đói rét, đạn bom, phải “mang mũ rơm đi học đường dài” họ vẫn “đội bom đến lớp ngày ngày em chăm”. Thế hệ hai mươi này không hề biết run sợ trước mọi kẻ thù, sống, học tập và chiến đấu với quyết tâm “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” với tâm niệm “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Họ yêu hòa bình nhưng không sợ chiến tranh, ra trận là để bảo vệ Tổ quốc và phẩm giá của dân tộc:
Ta đâu có thích gì máu đổ
Thích gì nghe đạn nổ bom rơi
Ta chiến đấu vì không cam cúi khổ
Không cho quân giặc Mỹ chém ngang người (Tố Hữu).
Họ là những chiến sĩ đã anh dũng quật cường chống lại đế quốc Mỹ, kẻ đã muốn dùng sức manh hủy diệt của bộ máy chiến tranh với dã tâm đưa “Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá”. Ở chiến trường miền Nam ác liệt, nhiều trong số họ đã ngã xuống để lại bao nhiêu thương tiếc, biết ơn cho các thế hệ sau này:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm
(Lê Bá Dương).
Ở hậu phương miền Bắc nhưng cũng là chiến trường khói lửa, nhất là khi đế quốc Mỹ leo thang, mở rộng chiến tranh ra cả nước, họ vừa sản xuất vừa chiến đấu, bắn máy Mỹ, bám trụ kiên cường dưới mưa bom bão đạn để bảo vệ huyết mạch giao thông chở người, vũ khí “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Cuộc chiến đấu đó không kém phần ác liệt, nhiều trong số họ đã anh dũng hy sinh như các liệt sĩ ở Đồng Lộc, Truông Bồn, Hang Tám Cô, đường 22 và sân bay dã chiến Libi…, những địa danh đã ghi vào lịch sử.
Tôi đã có dịp đến hồ Kẻ Gỗ, ngược dòng hồ mênh mang trời nước, trong cái nắng vàng óng ả và bầu trời xanh ngắt xứ Nghệ để thắp hương tại miếu Libi, nơi thờ các liệt sĩ đã hy sinh trên mảnh đất này. Tôi rất xúc động khi biết được chiến công thầm lặng và sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ trong quá trình mở đường 22, xây dựng sân bay Libi để rút ngắn hơn nữa cung đường vận chuyển thẳng ra tiền tuyến. Họ là bộ đội, là thanh niên xung phong hay công nhân xây dựng… đến từ nhiều miền quê yêu dấu trên đất nước ta như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Hà Tĩnh… đã xây dựng và chiến đấu chống lại dàn “con ma , thần sấm” Mỹ để bảo vệ đường, bảo vệ xe ra tiền tuyến. Tôi đã lặng người trước danh sách các liệt sĩ đã hy sinh trên cung đường 22 và sân bay dã chiến Libi trong các năm từ 1966-1973 mà phần lớn là con em của bà con ta đến từ Bình Lục, Kim Bảng, Phủ Lý, Thanh Liêm, Lý Nhân (Hà Nam) và hầu hết các huyện của Hà Tĩnh, nhất là Cẩm Xuyên thân yêu của tôi. Và cũng thật là đau xót khi biết hầu hết các liệt sĩ đã hy sinh ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời: tuổi hai mươi yêu dấu.
Với tôi, đời người ta độ tuổi nào cũng đẹp nhưng đẹp nhất vẫn là ở tuổi hai mươi với sức sống thể chất và tinh thần, ước mơ và hành động, khao khát và dấn thân, vô tư và trong sáng… tất cả như dồn tụ lại ở độ tuổi này. Thử thách nào cho tuổi trẻ cũng là cần thiết nhưng thử thách từ trong cuộc chiến đấu và dựng xây bảo vệ Tổ quốc (dù bất đắc dĩ) là những thử thách cam go để tạo ra một thế hệ kiên cường, viết lên các bản hùng ca bất diệt. Sự hy sinh của các liệt sĩ tại cung đường 22 và sân bay Libi là một trong những bản hùng ca đó.
20 ngày kia…
Libi là một sân bay dã chiến nhỏ, là đường băng mở rộng trục đường 22. Nhận thấy đây là các cung đường (20,21 và 22) là có ý nghĩa chiến lược, nhất để vận chuyển người, vũ khí ra chiến trường, trước đó không quân Mỹ đã nhiều lần ném bom phá hoại hòng cắt đường tiếp vận này, biến nhiều địa điểm nơi đây thành những “cung đường chết”. Ngày nay, một đoạn đường và sân bay Libi đã vĩnh viễn nằm dưới lòng hồ Kẻ Gỗ, nhưng biểu tượng cho sự thương nhớ và biết ơn của các thế hệ sau hiển hiện ở miếu thờ. Trong không gian yên ả, lặng ngắt như tờ, nén hương tưởng nhớ các anh chị cháy chưa tàn, dáng cong như một câu hỏi lớn.
Các cựu thanh niên xung phong Hà Tĩnh bên một hố bom tại chiến trường xưa
Sau này có dịp tra cứu thêm thông tin, tôi đựợc biết trong trận bom kinh hoàng rạng sáng ngày 7/1/1973, 20 máy bay B52 đã ném hơn 400 tấn bom xuống sân bay và xung quanh sân bay Libi, 34 liệt sĩ đã hy sinh anh dũng.
Là người cùng đã từng lớn lên với các anh chị trong tiếng bom gầm, đạn rú (từ tàu chiến Mỹ bắn vào), từng không dưới một lần cận kề cái chết, tôi cũng như hàng chục triệu người dân cả nước, người dân miền Bắc thời đó luôn đặt câu hỏi: “Bao giờ thì hết chiến tranh? Bao giờ thì cuộc sống trở lại bình thường?”. Câu hỏi đó càng day dứt, cháy bỏng hơn sau khi có các cuộc “đàm phán bốn bên” Paris kéo dài suốt mấy năm. Người dân nơi đâu cũng hy vọng, mong muốn kèm lời hứa: kẻ khá hơn hứa mổ lợn, người nghèo hứa giết gà, trẻ con mong áo hoa, cụ già ước thoát hầm…, ai cũng mong đợi hòa bình. Tôi nghĩ các anh chị đã hy sinh rạng sáng ngày 7/1/1973 đó còn mong đợi hòa bình hơn ai hết vì họ vừa phải đối đầu, thử thách căng thẳng qua hàng ngàn ngày bom đạn trước đây vừa đang chờ đương đầu với những trận bom bất ngờ sắp tới. Hoàn cảnh đó gợi tôi liên tưởng đến câu chuyện những người đang đêm bất chấp đói rét, vượt đầm lầy, rừng rậm với bao muông thú rình rập và rất chờ đợi bình minh đến. Nhưng tiếc thay, không kịp đón bình minh, họ đã ngã xuống bìa rừng khi đằng chân trời, bình minh vừa sắp rạng.
Ngày 8/1/1993, bốn bên nối lại đàm phán, 7 ngày sau, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc và 20 ngày sau (ngày 27/1/1973), Hiệp định Paris tuyên bố chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Con số 20 ngẫu nhiên trùng hợp gợi cho ta bao luyến tiếc, nhớ thương. 20 là tuổi các anh chị, đã vĩnh viễn dừng lại sau khi đi qua hàng ngàn ngày cận kề cái chết và chỉ còn cách sự sống cũng chỉ có 20 ngày.
Ngày 7/1/1993 đó cũng là ngày Chủ nhật, ngày thánh và ngày thờ phượng Chúa của người dân Ki tô giáo, ngày nghỉ ngơi thanh bình của nhân loại. Xót xa thay, đây cũng lại là ngày nghỉ vĩnh viễn của các anh chị sau khi đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc. Và theo tôi tìm hiểu thì đây là cuộc hy sinh tập thể cuối cùng lớn nhất trên miền Bắc trước ngày ngừng bắn.
Tôi nghĩ rất có thể trong giấc ngủ cuối cùng trên cõi dương thế rạng sáng 7/1/1973 ấy, các anh chị đã có rất nhiều giấc mơ đẹp vì với tuổi trẻ vốn hay mơ và giấc mơ nào cũng đẹp. Đó có thể là mai này, hết chiến tranh, anh sẽ về sửa lại cái mái nhà dột nát cho mẹ, chị trở lại mái trường xưa tiếp nối giảng đường, anh mơ sẽ được nắm tay người mà mình đang yêu thầm nhớ trộm, lá thư tình còn e ấp ngượng ngùng chưa dám gửi, chị mơ sẽ tổ chức một đám cưới giản dị chốn làng quê… Bao giấc mơ đời thường giản dị mà sâu lắng, đẹp đẽ! Tiếc nuối thay, vĩnh viễn đó vẫn chỉ là những giấc mơ không bao giờ thành hiện thực mà nay đã theo các anh chị về trời, để lại cho người thân nỗi đau không bao giờ nguôi:
“Có ai hay, một ngày đau đớn
Người ra đi, đi mãi không về
Mẹ đợi con, mùa thay lá biếc
Em ngóng anh, tối lửa tắt đèn
Mà tuổi hai mươi không ngoảnh lại
Hóa anh hùng giữa cõi vô biên” (Khuyết danh)
Và 20 tháng này…
Miếu thờ Libi đã ghi đậm dấu ấn trong trái tim khối óc những người đã đến thăm địa danh lịch sử này. Cùng với thời gian, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng và mong muốn của Nhân dân, tiếp nối truyền thống uống nước nhớ nguồn của thế hệ đi trước, Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance và Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ đã có sáng kiến kêu gọi và tổ chức xây dựng Đền thờ Libi, tạo điều kiện tốt nhất cho bà con ta đến thắp hương, tưởng nhớ các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh tại địa danh bi tráng này.
Trong khoảng 20 tháng kể từ ngày đề xuất sáng kiến, các nhà tổ chức đã nhận được sự hưởng ứng của hàng trăm cá nhân, tổ chức từ khắp mọi miền Tổ quốc ủng hộ. Đó là những người dân nghèo bình dị, là doanh nhân thấm đậm tinh thần tri ân, là các em học sinh nhỏ tuổi, là công nhân, trí thức, các tổ chức công và tư… đã nhiệt tình đóng góp tinh thần và vật chất để có được một công trình kiến trúc mà mọi vật liệu, hiện vật… có được hôm nay là kết quả của một quá trình “lao tâm khổ tứ”, tận tụy tìm kiếm những giá trị tốt nhất để dựng lên quần thể tâm linh này. Một ngôi đền đẹp, tọa lạc giữa một bên là hồ nước mênh mông, một bên là núi rừng xanh ngắt, không gian tuyệt vời này sẽ mãi ru giấc ngủ yên bình cho các anh hùng liệt sĩ “Máu của các chị các anh không uổng/Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam”.
Tôi nghĩ rồi đây, khi đến viếng thăm Đền, trong hương khói mờ ảo, nhìn xuống lòng hồ, chắc mỗi chúng ta không khỏi có chút chạnh lòng khi biết một phần xương thịt của các liệt sĩ còn nằm lại dưới mặt hồ lặng sóng kia, không khỏi ngậm ngùi khi liên tưởng đến cảnh các anh chị đã ngã xuống trước bình minh.
Và trên mặt hồ khi trở về, ngước nhìn bầu trời rất đặc trưng Kẻ Gỗ, mỗi chúng ta sẽ tự hứa sống có trách nhiệm hơn, trân trọng hơn mỗi phút giây của cuộc đời mình để ngày quay lại Đền này, ta có thể cúi đầu trước các anh linh mà nói rằng “chúng tôi đã không làm các anh chị thất vọng”.
Đền sẽ khuất dần trong tĩnh mịch của không gian nhưng hình ảnh của Đền như ánh sáng của nội tâm ta, của lòng yêu nước vẫn còn đó, soi tỏ cho chúng ta trong mỗi bước đi tới.
Trần Hữu Huỳnh
Nguyên Chủ tịch Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC)
Hơn 50 năm đã qua kể từ khi những người anh hùng quê Hà Nam hy sinh tại chiến trường đường 21, đường 22, sân bay dã chiến Libi, những thông tin về xuất thân, hành trạng, cuộc đời của họ vẫn chìm trong màn sương lịch sử. Điều này đã thôi thúc chúng tôi lên đường, tìm về mảnh đất Bình Lục – Hà Nam, mong lục trong ký ức thân nhân, lượm những câu chuyện quý giá, dựng lại một trang vàng của chiến công anh dũng và sự hi sinh oanh liệt của những người anh hùng thuở ấy.
Đi tìm
Tháng 8/2023, đền thờ anh hùng liệt sĩ hồ Kẻ Gỗ (tỉnh Hà Tĩnh) được cắt băng khánh thành. Bên trong ngôi đền, có hai tấm bia đá lớn khắc tên tuổi, quê quán của 62 vị anh hùng (bao gồm thanh niên xung phong và công nhân Xí nghiệp gạch Cẩm Thành) đã hi sinh tại chiến trường đường 22, sân bay dã chiến Libi trong giai đoạn 1966 -1973.
Trong 62 liệt sỹ có 28 người quê Hà Nam, thuộc các huyện Kim Bảng, Lý Nhân, Thanh Liêm, Phủ Lý và đặc biệt là Bình Lục (có tới 20 vị). Riêng Bình Lục, các xã Đồng Du, Tiêu Động và Bình Nghĩa là có nhiều liệt sĩ nhất. Bởi vậy, chúng tôi quyết định về các xã này để tìm kiếm thông tin.
Ngày 19/3/2025, chúng tôi có mặt tại UBND xã Đồng Du, huyện Bình Lục. Ông Trần Văn Hùng, Chủ tịch UBND xã, tiếp đón và cắt cử cán bộ đưa đoàn đến từng gia đình liệt sĩ có tên trong danh sách. Tại xã Đồng Du, chúng tôi được gặp một nhân vật đặc biệt, ông Phạm Đăng Vinh, năm nay 80 tuổi – là người đã trực tiếp tham gia và chứng kiến giai đoạn bi tráng của lực lượng thanh niên xung phong tỉnh Hà Nam trong việc tham gia mở đường 21, 22, sân bay dã chiến Libi.
Trong ngôi nhà nhỏ có cây hoa hồng trước hiên, ông Vinh tóc bạc phơ, vóc người nhỏ bé, nhưng sự tinh anh và mẫn tiệp vẫn hiện rõ. Ông cười lớn khi chúng tôi vào nhà, tự trào mình vẫn là “thanh niên” và rằng ông tự hào khi là một phần của thế hệ thanh niên ba sẵn sàng, ở cái thời mà ông Nguyễn Lam vẫn còn là Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn (về sau ông Nguyễn Lam làm tới Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Hà Nội, Phó thủ tướng Chính phủ).
Ông Phạm Đăng Vinh, nhân chứng đang kể lại những ngày tháng có mặt ở mặt trận Kẻ Gỗ
Nhấp ngụm trà thơm, ông Vinh xác nhận hai liệt sĩ Trần Văn Xuân, Phạm Công Chi đã tham gia vào đoàn thanh niên xung phong tỉnh Hà Nam đi chiến đấu tại mặt trận Hà Tĩnh. Trong đó, liệt sĩ Trần Văn Xuân hi sinh khi đang lái xe, vì xe bị trúng hỏa tiễn của giặc, còn liệt sĩ Phạm Công Chi (bạn đồng môn, đồng tuế với ông) tới nay vẫn chưa tìm được mộ phần.
Lục trong kí ức, ông Vinh cho biết Hà Nam ngày ấy có các đại đội (viết tắt là C) đi mở đường 21, 22, gồm: C352, C357, C359, C362… Mỗi C gồm khoảng 300 người, cao nhất là C357 với 320 người. “Tôi thuộc C357, đơn vị tôi bắt đầu ra quân vào ngày 5/7/1965, ban đầu hoạt động tại các địa bàn Nam Đàn (Nghệ An), ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), sau đó chuyển đi mở đường 21”, ông Vinh kể.
Đường 21 là tuyến đường chiến lược chạy song song với trục đường 15A, bắt đầu từ tỉnh lộ 3, Km số 0 ở ngã ba Khe Giao, xã Thạch Ngọc (nay là xã Ngọc Sơn) huyện Thạch Hà đến Km số 18+600 ngã ba Thình Thình, xã Thạch Điền (nay là xã Nam Điền), sau đó tiếp tục đi xuyên đường Trường Sơn bám hữu ngạn sông Ngàn Sâu vào đến tận Tân Ấp, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Tổng chiều dài của toàn tuyến là hơn 54km với mặt đường rộng 4 - 5m.
Còn đường 22 là dài 65km, chạy từ ngã ba Thình Thình (nay thuộc xã Nam Điền, huyện Thạch Hà) đi vòng qua vùng hồ Kẻ Gỗ (xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên), chạy qua nhiều xã thuộc huyện Kỳ Anh rồi kết thúc tại huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Lực lượng tham gia mở đường 22 gồm 4 đội thanh niên xung phong với khoảng hơn 6.000 người. Đến cuối năm 1970 - đầu năm 1971, tuyến đường chiến lược 22 hoàn thành. Trong quá trình mở đường 22, lực lượng quốc phòng đã chọn vùng Đá Bạc để xây dựng công trình quốc phòng 723 (còn gọi là sân bay dã chiến Libi - tên đặt theo một khe suối ở làng Đá Bạc, xã Cẩm Mỹ). Sân bay được hoàn thành cuối năm 1972, đầu năm 1973, nhưng bị giặc Mỹ dùng B52 đánh phá ác liệt.
Trong những trận chiến bảo vệ tuyến đường 21, 22, sân bay Libi, ông Vinh đã chứng kiến nhiều đồng chí, đồng đội của mình hi sinh, như liệt sĩ Lã Thị Huệ, liệt sĩ Trần Thị Tuyết cùng hi sinh trong một trận chiến lúc 20h tại mặt trận đường 21. Hay như trong một trận ném bom ác liệt của giặc tại ngã ba Thình Thình, 12 đồng chí của ông đã hi sinh. Trong 12 người đó, có 2 trường hợp đặc biệt đau xót là liệt sĩ Trần Thế Luận (xã Vũ Bản, huyện Bình Lục) và liệt sĩ Trần Thanh Tặng (xã La Sơn, huyện Bình Lục).
“Hai ông không trực tiếp ra mặt trận, nằm tại doanh trại để hôm sau đi cắt gỗ về làm quan tài dự trữ cho đơn vị. Vì thế sau này, việc làm chế độ cho các anh rất khó khăn”, ông Vinh cảm thán.
Những mảnh ký ức
Cuộc gặp gỡ với ông Phạm Đăng Vinh đã giúp chúng tôi giải tỏa sự mơ hồ về thân thế của các liệt sĩ được khắc tên trên bia đá hồ Kẻ Gỗ. Những anh hùng Trần Thế Luận, Trần Thanh Tặng, Trần Thị Tuyết, Lã Thị Huệ là những người đã chiến đấu anh dũng trên mảnh đất Hà Tĩnh để giữ từng mạch đường cho quân ta tiến vào miền Nam giải phóng đất nước.
Theo mạch thông tin đó, chúng tôi vào nhà thân nhân của liệt sĩ Lã Thị Huệ, tại thôn Ô Lữ, xã Đồng Du. Ông Lưu Văn Khải, người gọi liệt sĩ Lã Thị Huệ là dì ruột, xác nhận thông tin liệt sĩ Huệ sinh năm 1946, mất năm 1966 là chính xác. Điều này càng củng cố thêm cho chúng tôi niềm tin về việc hoàn thành sứ mệnh tìm kiếm thông tin tại Hà Nam. Tuy vậy, điều đáng tiếc là do cách biệt thế hệ, hoặc là em, hoặc là cháu, những thân nhân không lưu giữ được nhiều thông tin của các liệt sĩ. Hồ sơ, giấy tờ qua mấy chục năm chiến tranh, nghèo khó đã không còn đầy đủ. Ký ức cũng đứt quãng, thậm chí vụn vặt như những đốm sáng lập lòe trong đêm.
Ông Lê Văn Chơi đang hồi tưởng về anh trai là liệt sĩ Lê Văn Chắn
Không riêng tại Đồng Du, khi sang xã Bình Nghĩa, vào nhà các liệt sĩ Trần Văn Phúc, liệt sĩ Trần Quốc Tuyến, tình cảnh cũng đều như vậy. Thân nhân chỉ nhớ được năm sinh, năm mất, chỉ còn gìn giữ được một tấm bằng Tổ quốc ghi công, một bức ảnh truyền thần, thậm chí có liệt sĩ không còn cả một bức ảnh. Ở xã Tiêu Động, huyện Bình Lục (là quê hương của vị tướng lừng lẫy Trần Tử Bình (tên thật là Phạm Văn Phu, một trong 10 vị tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tướng), chúng tôi vào nhà liệt sĩ Phạm Văn Sách, gặp em gái liệt sĩ là bà Phạm Thị Uy. Bà Uy năm nay đã 68 tuổi, vẫn còn nhớ rõ những kỷ niệm về người anh trai của mình. Bà cho biết liệt sĩ Sách sinh năm 1949, khi mới hơn 15 tuổi đã xung phong nhập ngũ. Lục giấy tờ cũ, bà lấy ra thư khen của Ban chỉ huy Đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước 35, đề ngày 5/7/1966, ghi nhận liệt sĩ Phạm Văn Sách ngày ấy thuộc đại đội 357. Nhân dịp đồng chí Phạm Văn Sách tròn 1 tuổi quân, thư khen đã đánh giá đồng chí có các tiến bộ rõ rệt về trình độ giác ngộ chính trị, học tập văn hoá tích cực, được lên lớp, hoàn thành nhiệm vụ trong rèn luyện phẩm chất cách mạng.
Thư có đoạn: “Chúng tôi thấy đồng chí Sách có nhiều triển vọng tiến bộ, đề nghị gia đình ta hết sức khắc phục khó khăn trong thời gian đồng chí Sách đi vắng, động viên anh chị em ngoài tiền tuyến an tâm phấn khởi công tác, góp phần cùng toàn dân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thay mặt toàn thể cán bộ trong đội, Ban chỉ huy kính chúc gia đình mạnh khoẻ, sản xuất, tiết kiệm tốt, tích cực góp phần chống Mỹ cứu nước”.
Liệt sĩ Phạm Văn Sách sau đó đã anh dũng hi sinh tại mặt trận phía Tây, ngày 21/3/1970. Kể từ đó đến nay, bà Phạm Thị Uy ở vậy chăm sóc cha mẹ và thờ cúng anh trai trong ngôi nhà cấp bốn nhỏ bé, đã xuống cấp nghiêm trọng trước sức nặng thời gian.
Cũng nhớ được khá nhiều là ông Lê Văn Chơi, em trai của liệt sĩ Lê Văn Chắn tại xã Tiêu Động. Trong câu chuyện với chúng tôi, ông Chơi xác nhận liệt sĩ Chắn sinh năm 1943, từng làm công nhân tại Nam Định rồi Cao Bằng, từ đó nhập ngũ chiến đấu chống giặc và mất năm 1972.
Mây trắng còn bay
Những thân nhân của liệt sĩ - những người năm ấy còn là đứa trẻ con, được chú, được anh ôm vào lòng, xoa đầu trước lúc lên đường ra trận - giờ đều đã bước sang tuổi 60, 70, tóc đã bạc phơ, mắt đã kèm nhèm, mỗi khi nói chuyện lại phải gắng gượng lục tìm trong trí nhớ những kỷ niệm cũ, tưởng chừng đã phôi phai. Chỉ có các anh hùng liệt sĩ là vẫn thế, mãi mãi trẻ, vĩnh viễn trẻ, như mây trắng bay giữa trời, nghìn năm vẫn một màu như vậy.
50 – 60 năm đã trôi đi kể từ khi các anh hùng về trời, nỗi đau đã ngủ yên, nhưng lòng tiếc thương và sự biết ơn vẫn còn cháy đượm trong trái tim mỗi người. Đường về Đồng Du, Bình Nghĩa, Tiêu Động hôm nay rất đẹp. Mùa xuân tháng ba, trăm hoa nở rộ, lúa non phấp phới, gió lay ngọn cờ. Sự thanh bình ấy có được là nhờ sự hi sinh của các anh hùng, liệt sĩ, những người đã nằm xuống ở góc rừng Trường Sơn, trên đường 21, 22, trên sân bay Libi, mà chiến trận xưa, giờ đã nằm sâu trong lòng hồ Kẻ Gỗ.
“Đốt nén hương thơm, mát dạ người”, một chuyến đi, trăm câu chuyện kể, thêm cho chúng ta bao điều quý báu để tưởng nhớ và biết ơn những người anh hùng.
Trong quá trình tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cũng như tham gia các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước, cùng với quân đội, nhân dân, lực lượng thanh niên xung phong (TNXP) Việt Nam, lực lượng TNXP Hà Nam đã có những đóng góp, hy sinh to lớn, được Đảng, Nhà nước ghi nhận, tôn vinh. Trong danh sách các anh hùng liệt sỹ đang được thờ cúng tại Đền thờ AHLS ở lòng hồ Kẻ Gỗ, có nhiều người quê ở Hà Nam.
Theo các tài liệu chính thức, Hà Nam có 17 nghìn đội viên TNXP thuộc nhiều thế hệ. Trải qua các cuộc chiến tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng TNXP Hà Nam có hơn 400 liệt sỹ, 200 đội viên bổ sung chiến đấu, hy sinh bên quân đội; gần 300 nữ đội viên lỡ tuổi, sống đơn thân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã lùi xa nửa thế kỷ, nhưng nhiều nỗi đau vẫn còn đó.
Xuân Hải – Đức Hùng
Tác giả (áo sáng) trong một chuyến tìm và khai quật hài cốt liệt sỹ trong lòng hồ Kẻ Gỗ
Khởi đầu từ một lời hứa
Tháng 4/2010, trong một chuyến đi về nguồn của Ban Quản lý Giao thông Đô thị II TP. Hồ Chí Minh đến Hà Tĩnh do ông Vũ Kiến Thiết dẫn đầu đã có dịp dừng chân tại hồ Kẻ Gỗ. Khi ấy, tôi chỉ đơn giản là người công tác tại Ban Quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, hỗ trợ hướng dẫn, tổ chức du thuyền và tiếp đón đoàn. Nhưng không ngờ, chính buổi gặp gỡ đó đã khởi nguồn cho một hành trình kéo dài hơn một thập kỷ sau này.
Trong bữa cơm thân mật sau chuyến đi, tôi kể cho mọi người nghe về sân bay dã chiến Libi, một phần của công trình quốc phòng 723, và trận bom B52 kinh hoàng vào đêm ngày 7/1/1973. Đêm đó, hơn 30 người đã hy sinh, nhưng tên tuổi của họ đến nay vẫn chưa được ghi chép đầy đủ.
Câu chuyện khiến cả đoàn lặng đi. Đến khi ra về, họ cùng nhau quyên góp được 24 triệu đồng, gửi lại cho tôi với mong muốn lập một bàn thờ cho các liệt sỹ. Cầm số tiền trong tay, tôi vừa xúc động, vừa lo lắng. Việc này không chỉ đơn thuần là xây dựng một nơi thờ tự, mà còn là trách nhiệm với những linh hồn chưa được gọi tên.
Nhờ sự chung tay của ông Nguyễn Văn Dũng, Giám đốc Công ty TNHH Lạc An, (người con của Hà Tĩnh, sinh sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh, cùng tham gia về nguồn với đoàn Ban Quản lý giao thông đô thị II – TP. Hồ Chí Minh) cùng nhiều nhà hảo tâm khác, công trình được khởi công vào ngày 9/8/2011 và hoàn thành vào ngày 26/4/2012. Vị trí ngôi miếu nằm bên cạnh dấu tích sân bay giữa núi rừng, trong lòng hồ Kẻ Gỗ. Đến năm 2014, miếu thờ được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Ông Nguyễn Văn Dũng còn mua tặng một chiếc thuyền máy gỗ cho Ban quản lý để có thể vận chuyển du khách gần xa có thể thuận tiện vào đây thắp hương tưởng nhớ những anh hùng đã khuất.
Thế nhưng, vẫn còn nhiều điều trăn trở. Mỗi lần có đoàn đến dâng hương, ai cũng hỏi: “Những liệt sỹ này là ai? Họ thuộc đơn vị nào?”. Và tôi – một trong những người tự nhận thấy đây là trách nhiệm của mình phải tìm kiếm, vẫn chưa có câu trả lời. Nhưng tôi vẫn có niềm tin sẽ làm được điều gì đó, tôi sẽ cố gắng đi tìm những chứng nhân lịch sử để có thể biết được danh tính những người đã hy sinh trong trận bom ngày ấy. Lời hứa với những linh hồn kia thôi thúc tôi phải đi tìm sự thật.
Đi tìm danh tính những người đã khuất
Bước đầu tiên của tôi là tìm đến những người lớn tuổi trong vùng, những người có thể còn nhớ về trận đánh năm xưa. Tôi gặp bác Dương Hữu Giáo, nguyên cán bộ Liên đoàn Lao động tỉnh, mong bác có thể giúp tôi tìm manh mối qua các mối quan hệ của mình.
Bác Giáo rất nhiệt tình, còn liên hệ với Thiếu tướng Phạm Long để hỏi thông tin từ Bộ Quốc phòng. Nhưng rồi, kết quả nhận được là một sự im lặng kéo dài, không ai có bất kỳ hồ sơ nào về đơn vị tham gia xây dựng sân bay Libi.
Không bỏ cuộc, tôi tiếp tục tìm đến bác Dương Danh Trành, người từng làm việc tại sân bay dã chiến. Gặp bác Trành lần đầu tiên, tôi đã bất ngờ bởi trí nhớ tuyệt vời của bác. Bác kể lại rành rọt trận ném bom đêm đó, khẳng định có hơn 30 người hy sinh, trong đó phần lớn là công nhân từ Ty Kiến trúc, Xí nghiệp Gạch ngói Cẩm Thành và Thị Chính. Bác Trành còn lưu giữ giấy chứng nhận bị thương ngày đó và danh sách những người hy sinh, tuy nhiên chỉ có tên chứ không có họ và quê quán. Bác cũng chỉ biết chính xác những người trong xóm đó là Liệt sỹ Dương Đôn và Liệt Sỹ O Kế, còn lại là thì bác cung cấp cho tôi sơ bộ vì bác cũng không biết cụ thể.
Những gì bác kể lại trùng khớp với những manh mối ít ỏi mà tôi có được. Tôi quyết định quay lại gặp bác nhiều lần để kiểm chứng. Mỗi lần hỏi, bác vẫn kể y nguyên như vậy, không sai một chi tiết nào. Điều đó khiến tôi càng thêm tin tưởng rằng mình đang đi đúng hướng.
Không có hồ sơ chính thức, tôi buộc phải tìm theo cách thủ công, đến từng nghĩa trang, từng xã, từng gia đình có người từng tham gia chiến đấu tại khu vực này. Năm 2014, tôi được điều động lên Ban Quản lý rừng phòng hộ sông Ngàn Phố (Huyện Hương Sơn), công việc ở đơn vị mới bận rộn khiến quá trình tìm kiếm bị chững lại. Đến năm 2016, tôi được điều chuyển trở lại Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ. Về đây, với việc thường xuyên quay lại di tích miếu thờ, tôi lại tự thôi thúc bản thân cố gắng hết mình để vừa đảm bảo công việc nhà nước giao vừa có thể tiếp tục hành trình tìm kiếm danh tính liệt sỹ còn dang dở của mình. Nhờ sự giúp đỡ của chính quyền các địa phương, bạn bè gần xa, những người du khách đến phúng viếng, tôi được hỗ trợ về mặt kết nối thông tin rất nhiều. Ai biết chút manh mối nào cũng cung cấp cho tôi. Cứ tiếp nhận một thông tin mới là tôi tranh thủ ngoài giờ làm việc đi xác minh, thu thập. Quá trình này diễn ra liên tục ngày này qua ngày khác trong một quãng thời gian rất dài.
Một trong những chuyến đi đáng nhớ nhất của tôi là khi tìm được bác Lê Thị Kim Nhơn, người từng làm việc tại sân bay. Bác Nhơn kể rằng bác nhớ một người tên Lê Xuân Kỳ, một trợ lý quân nhu trong đơn vị công binh, có thể biết rõ về những người đã hy sinh.
Vậy là tôi bắt đầu hành trình tìm bác Kỳ với hy vọng đây là người có thể nắm giữ những điều tôi cần. Theo các thông tin bác Nhơn cung cấp, tôi đã đi lần mò từ Thanh Hóa đến Hà Nội, rồi vào tận Đồng Nai, cuối cùng, tôi gặp được đúng bác Kỳ vào năm 2022. Bác xác nhận đơn vị mình là Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 229, Bộ Tư lệnh Công binh, đơn vị trực tiếp xây dựng sân bay dã chiến. Nhưng đau lòng thay, bác không nhớ danh sách những người đã hy sinh.
Qua bác Nhơn, tôi cũng biết thêm bác Tình, cũng là một nhân chứng ngày đó. Bác Tình được giới thiệu là cán bộ y tá - người trực tiếp xác định danh tính liệt sỹ và cấp cứu thương binh, thế là tôi rong ruổi tìm bác Tình suốt 2 năm trời. Khi rảnh rỗi tôi theo lời kể cứ xuống xã Cẩm Dương và Cẩm Hòa huyện Cẩm Xuyên. Từng manh mối nhỏ theo trí nhớ của nhiều người, họ chỉ dẫn cho tôi hết thôn xóm này đến thôn xóm khác nhưng đến thông tin cuối cùng thì không ai biết bác Tình là ai. Sau khi mất nhiều thời gian mà không có kết quả, tôi thay đổi hướng tìm kiếm nhân chứng lịch sử. Một hôm tôi đến gặp một thầy cắt thuốc bắc trong vùng, tôi nghĩ thầy cắt thuốc sẽ biết nhiều người. Thật may mắn cho tôi khi tôi đến hỏi thầy thuốc thì thầy có biết về bác Tình mà tôi đang tìm kiếm thật. Lòng tôi vui mừng biết bao. Thầy kể cho tôi bác Tình lúc con nhỏ ăn học ở vùng này, nhưng đi thoát ly sớm, sau đó lấy chồng xa nên trong làng xã ít ai biết đến. Thầy chỉ cho tôi Bác tình lấy chồng ở ở Hồng Lĩnh, nhưng không rõ địa chỉ cụ thể. Nhưng thông tin này cực kỳ hữu ích. Thông qua các mối quan hệ của tôi, tôi đã hỏi ra và tìm đến gặp được bác ấy. Không may cho tôi gặp được bác Tình thì bác đã bị tai biến mạch máu não trước đó 2 năm. Bác chỉ nói trước đây ai chết bác đều ghi tên từng người để chuyển về nghĩa trang km số 8 đường chiến lược số 22. Giờ chỉ nhớ con số 32 hay 34 người hy sinh đêm hôm 07/01/1973 đó là hy sinh tại chổ còn về Bệnh viện tỉnh tại xã Thạch Hương thì không biết có hy sinh thêm ai nữa không. Hiện tại, bác không còn danh sách gì cả. Theo lời bác, tôi quyết định sẽ đi tìm thêm qua một hướng mới. Tôi vẫn tranh thủ thời gian ngày nghỉ và ngoài giờ làm việc đi đến phòng LĐTBXH để xin cung cấp thông tin từ những manh mối liên quan; đi đến nghĩa trang liệt sỹ lớn, sau đó đi các nhà bia các huyện các các xã, kể cả việc đi nhờ thầy tâm linh... Hễ biết ai cho thông tin thầy giỏi có thể tìm được được liệt sỹ tôi đều tìm đến để nhờ mong sao tâm nguyện trăn trở bấy lâu của tôi thành hiện thực. Nhưng thời gian cứ trôi, manh mối thì nhiều nhưng kết quả vẫn chưa được như mong đợi.
Có những thời điểm hành trình tưởng chừng như đi vào ngõ cụt. Việc làm này của tôi là hoàn toàn tự nguyện. Có những thời điểm tôi gặp khó khăn về tài chính, cũng có những thời điểm gặp vấn đề về sức khỏe, cộng thêm việc bỏ rất nhiều thời gian và công sức nhưng đôi khi đi vào ngõ cụt, nhiều lần tôi cũng rất buồn. May thay bên cạnh tôi có gia đình yêu thương, vợ con tôi, anh chị em tôi, những người đồng nghiệp, đồng chí, đồng đội cũ của tôi, bạn bè tôi đều thấu hiểu việc làm này của tôi. Người thì gửi lời động viên, người thì chung sức đồng hành cũng những chuyến xe, người thì cũng hỗ trợ thu thập thông tin qua những người họ nghĩ là có thể biết để giúp được tôi phần nào. Điều này thôi thúc tôi không bao giờ được phép bỏ cuộc. Còn sức khỏe là còn có thể đi, còn hy vọng tìm kiếm.
Nhân duyên mới
Năm 2020, tôi tình cờ gặp được nhà báo Hoàng Anh Minh trong một lần anh về thăm hồ Kẻ Gỗ. Anh Hoàng Anh Minh là người con Hà Tĩnh, hiện nay đang là Tổng biên tập của Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance. Qua những câu chuyện kể, cả anh và tôi đều thấy và hiểu sự hy sinh lớn lao của các liệt sỹ giữa đại ngàn hồ Kẻ Gỗ linh thiêng này, và mong muốn làm được nhiều điều hơn để tưởng nhớ đến các vị. Anh Hoàng Anh Minh không chỉ giúp tôi tiếp cận thêm nhiều nhân chứng, mà còn kết nối để xây dựng lại khu đền thờ một cách trang trọng hơn. Đến ngày 18/07/2022, sau nhiều thời gian vận động quyên góp từ các nhà hảo tâm, chính thức khởi công Khu đền thờ các anh hùng liệt sỹ sân bay dã chiến Libi, tại gần ngay khu miếu thờ cũ. Đến nay, công trình này đang ngày càng hoàn thiện, rất trang trọng và đã được công nhận là di tích văn hóa cấp tỉnh.
Hành trình để tìm được danh tính liệt sỹ trải qua rất nhiều ngày, đi đến nhiều nơi, gặp nhiều người. Từ việc gặp những người trùng tên, có những lần đi theo manh mối nhưng không đúng địa chỉ do nhân chứng tuổi già lẫn lộn, từ những ngày mưa gió vẫn lần mò từng bia mộ. Mỗi danh tính gần như là những câu chuyện.
Tính đến nay, tôi đã xác minh được danh tính của 29/32 liệt sỹ hy sinh tại sân bay dã chiến Libi. Tôi không phải là một cán bộ chuyên trách về lĩnh vực này, mà chỉ là một người tự thấy mình có trách nhiệm với việc đó, do đó, quá trình đi gặp không ít khó khăn và trở ngại, từ kinh nghiệm, nghiệp vụ… tôi đều chưa hề có, nhưng với sự giúp đỡ của chính quyền, của những người thân quen và cũng rất nhiều người lạ, điều tôi cảm thấy luôn được chia sẻ là người Việt Nam mình rất hướng về nguồn. Khi tôi làm đi đến đâu cũng được các đầu mối niềm nở chia sẻ, ai cũng mong tâm nguyện của tôi hoàn thành, cũng như các liệt sỹ được có tên để người đời sau còn tưởng nhớ. Cuộc đời tôi là một hành trình dài, sự nghiệp tôi gắn liền với hồ Kẻ Gỗ, những đêm nằm giữa rừng nghe tiếng hành quân trong thổn thức phần nào bây giờ cũng đã bớt băn khoăn, tôi làm những việc này không phải để người đời biết ơn, mà đó là trách nhiệm của một người con sinh ra trên mảnh đất anh hùng, của một người sinh ra lớn lên trong chiến tranh, chứng kiến quá nhiều đau thương mất mát, và bằng sự biết ơn vô hạn với những liệt sỹ đã hy sinh về sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Vẫn còn hai liệt sĩ tại trận bom năm đó chưa xác minh được quê quán và một liệt sỹ chưa đến được nhà thân nhân. Nhưng tôi tin tôi và chúng ta sẽ tìm được thông tin. Tôi vẫn sẽ tiếp tục hành trình.
Trong quá trình tìm kiếm danh tính liệt sỹ tại trận bom năm đó thì tình cờ tôi cũng đã làm được hai việc mà khiến tôi thêm phần an lòng.
1. Xin cấp bằng Tổ quốc ghi công cho Liệt sỹ Nguyễn Hữu Thực
Trong số các liệt sỹ đã xác định được danh tính, có Liệt sỹ Nguyễn Hữu Thực, quê ở Sơn Tiến, Hương Sơn. Chuyện kể là, trong thời gian chuyển công tác lên công tác tại Hương Sơn tôi có quen một người bạn tên Thuần. Thời gian làm việc ở đây, tôi cũng có trao đổi, kể chuyện về việc mình đang làm để hy vọng ai biết được thông tin nào thì hỗ trợ thêm cho tôi, mặc dù tôi không có nhiều thời gian như lúc đang ở đơn vị cũ. Thế rồi một ngày mãi về sau, lúc tôi đã rời Hương Sơn về làm việc lại tại Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ thì anh bạn Thuần gọi điện cho tôi là đã có manh mối về than nhân liệt sỹ Nguyễn Hữu Thực. Tôi xúc động vô cùng, ngay lập tức, tôi nhờ anh Bùi Tân ( đồng nghiệp của tôi) chở tôi lên Hương Sơn để tìm gặp. Qua xác minh thì thông tin trùng khớp, nhưng đau lòng thay, sự hy sinh của anh chưa được xã hội biết đến. Tên anh chưa được khắc trên bia tưởng niệm liệt sỹ, ban thờ anh chưa có được bằng tổ quốc ghi công. Điều này thôi thúc tôi cần phải có tiếng nói. Tôi đã tìm đến các cấp chính quyền, trình bày đầy đủ những tư liệu dẫn chứng nhờ hỗ trợ để có thể công nhận cho anh. Thật may mắn, chính quyền cũng hết lòng hỗ trợ xác minh, và khi chứng thực được tính chính xác thì nhà nước đã cấp cho anh Bằng Tổ quốc ghi công vào ngày 27/02/2024. Điều này thực sự rất nghẹn ngào đối với tôi, một niềm vui khó tả, tôi lúc đó thầm cảm ơn bạn tôi, cảm ơn trời đất, cảm ơn những cơ duyên đã cùng tôi làm được việc này cho anh và gia đình anh, thầm mong anh yên nghỉ.
2. Quy tập mộ liệt sỹ.
Trong một lần về xã Thụ Lộc, huyện Lộc Hà để xác minh thông tin về liệt sỹ Phạm Thị Thu hy sinh tại trận bom năm đó, tôi được biết đến bác Duệ. Tìm hiểu và được bác chia sẻ thông tin liệt sĩ Phạm Thị Thu. Chúng tôi lại được nghe câu chuyện đầy bi thương mà bác Duệ là nhân chứng sống kể. Ngoài trận ném bom B52 phá hủy sân bay dã chiến ở km số 16 đường chiến lược số 22 thì còn có một số lần khác nữa. Ngồi nói chuyện tôi được bác Duệ kể: một chiến sĩ lái xe đang vận chuyển hàng vào miền Nam đến đoạn km46 đường chiến lược số 21 thì bị trúng bom thiêu trụi, trên thùng xe chỉ còn lại chiếc tẹc không. Bác Duệ và đồng đội chỉ biết bẻ miếng tôn trên xe rồi nhặt phần nội tạng, thi thể còn sót lại đưa tới chôn tại hố bom gần khe cạn không có nước. Bác ngồi kể rồi cứ trăn trở không biết làm cách nào để đưa phần hài cốt này về nơi cao ráo thoáng mát để tôi mới yên lòng chứ khi nghĩ về chiến tranh tôi lại cứ thổn thức mãi việc này không thôi. Nghe bác kể câu chuyện thật xót xa, lòng mình quặn thắt, tôi hứa với bác Duệ sẽ tìm mọi cách để kết nối các cơ quan có thẩm quyền biết có kế hoạch quy tập mộ. Muốn báo cáo cấp có thẩm quyền trước hết mình phải nắm chắc thông tin và xác minh sự việc thực tế.
Tôi đề xuất với bác Duệ, hẹn bác một ngày gần nhất đón bác đi đến vị trí bác kể để xác minh vị trí vì nằm trong khu vực cơ quan tôi quản lý. Nhưng không may cho chúng tôi kể từ ngày gặp bác Duệ, dịch covid -19 bùng phát trở lại không thể nào đi được, thế là đành phải chờ ngày hết dịch. Dịch Covid-19 đã tạm lắng xuống, ngày 27/6/2022 tôi hẹn bác Duệ rồi thuê xe chở bác Duệ từ quê lên thành phố Hà Tĩnh để đi Quảng Bình tìm mộ. Khi đến bìa rừng, chúng tôi được anh em Trạm bảo vệ rừng số 4 ( Ban QL Khu Bảo tồn TN Kẻ Gỗ) đón sẵn chở chúng tôi vào rừng. Mặc dù đường rất hiểm trở, khó đi nhưng ai cũng đều quyết tâm. Bác Duệ đã ngoài 70 nhưng đi bộ đường rừng rất nhanh, tôi nghĩ là trong bác đã ấp ủ một nguồn năng lượng vô cùng để làm việc này, một trách nhiệm lớn lao với người đồng đội đã khuất năm xưa.
Khi đi qua dốc ngầm pháo km 47 đường 21 bác dừng lại nói: “Chú ạ! gần đến rồi!”, sau đó bác lại tiếp tục đi rất nhanh bác đi trước đến tại một vị trí bác dừng lại nói: “Đến đây rồi!, tôi đứng đây, các chú đi ra hướng tây”. Bác nói khi gặp hố bom cạn phía ngoài thì đi tiếp một quãng nữa sẽ gặp hố bom to sâu hơn nằm cạnh khe cạn. Mấy anh em chúng tôi tỏa theo hướng bác chỉ và đúng như lời bác nói chúng tôi đã gặp hai hố bom cách bác đứng khoảng 150 - đến 200m giữa rừng cây cối râm rạp không có lối đi. Bất ngờ bác nói: “Các chú dừng lại đây để tôi lại xem bụi nứa bên đường có còn nựa không?” Bụi nứa này cách khoảng 50m so với điểm lúc đầu bác đứng chỉ đường cho chúng tôi. Đến nơi bác gọi to “Bụi nứa đang còn đây, chính xác rồi!”. Thế là anh em bác cháu phát cây dọn lễ thắp hương xong ra về. Tôi cứ thầm nghĩ bác Duệ có trí nhớ thật tuyệt vời, và phải có cơ duyên thần kỳ nữa thì mới có thể tìm ngay ra vị trí chôn cất giữa cánh rừng bạt ngàn mênh mông 50 năm trôi qua. Ra đến trạm bảo vệ rừng tôi dặn anh em theo phong tục cổ truyền, ngày lễ các em cố gắng lên phát dọn và thắp cho liệt sỹ nén nhang tri ân. Bác cháu ra về lúc này trời cũng đã chuyển về chiều, tâm trạng ai cũng bồi hồi xúc động. Sau khi chia tay bác Duệ ra về tôi hứa với bác, sẽ làm tròn trách nhiệm và sự mong đợi của bác để bác yên lòng. Hôm sau tôi báo cáo với đồng chí xã đội trưởng xã Hương Trạch để có thể báo cáo với huyện sớm xác minh và triển khai cất bốc lập mộ cho liệt sỹ nhưng phía Bộ chỉ huy quân tỉnh Hà Tĩnh sự trả lời phải có hồ sơ đầy đủ mới được lập kế hoạch tổ chức quy tập mộ.
Với cá nhân tôi, theo cả hành trình này thì tôi nhận thấy, phần mộ này về thực tế là có thật, người chôn cất liệt sỹ còn sống đã trực tiếp đi chỉ vị trí địa điểm thì hoàn toàn đáng tin, để yêu cầu đủ hồ sơ đúng theo quy định ở thời điểm bây giờ khi chiến tranh đã đi qua quá lâu, những gì còn sót lại là quá mong manh thì gần như là không thể. Tôi đã xin ý kiến các cấp chính quyền, nếu trong quy định không thực hiện được thì tôi muốn bằng ý chí cá nhân, xin phép được cất bốc lập mộ cho liệt sỹ gửi đến UBND Xã Hương Trạch và UBND xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Các xã nhất trí và nhiệt tình ủng hộ. Tôi xin xã Hương Hóa một đám đất tại nghĩa trang của xã và được họ đồng tình. Đồng chí Xuân - Chỉ huy trưởng quân sự xã cùng với bác trưởng thôn và 1 bác ở Hội người cao tuổi chọn cho một đám đất tại nghĩa trang của xã Hương Hóa, thuê máy san lấp bằng phẳng.
Ngày 19/12/2024, tôi cùng một số đồng nghiệp đã tiến hành cất bốc, đưa những gì còn sót lại của ngôi mộ năm xưa về nghĩa trang. Sau khi hoàn thành phần mộ, tập thể lãnh đạo chính quyền 2 địa phương xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình và xã Phúc Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh đã đến động viên chia sẻ khiến tôi thật sự cảm động. Tôi vô cùng biết ơn anh Hoàng Anh Minh, các anh em, đồng nghiệp, bạn bè, gia đình, người thân đã hỗ trợ một phần kinh phí, góp công, chung sức cùng tôi suốt cả hành trình từ lúc gặp gỡ bác Duệ đến lúc hoàn thành việc xây mộ cho vị liệt sỹ chưa xác định thông tin này.
Nguyễn Phi Công
Phó Giám đốc Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ
Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Với tinh thần quật cường, kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu chống lại quân xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt chống thực dân Pháp, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh, cống hiến xương máu, sức lực trên các chiến trường. Thấm nhuần đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc và thấu hiểu sâu sắc giá trị của sự hy sinh, cống hiến to lớn của các anh hùng liệt sĩ, thương binh đối với đất nước, Đảng, Chính phủ, Bác Hồ và Nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu cho các chiến sĩ và đồng bào đã vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh.
Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn ra đời ở Thuận Hóa (Bình Trị Thiên), tiếp đến Hà Nội và một số địa phương khác, sau đó ít lâu được đổi thành Hội giúp binh sĩ bị thương. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Hội.
Chiều ngày 28/5/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Tổng Hội giúp binh sĩ bị nạn tổ chức cuộc nói chuyện quan trọng để kêu gọi đồng bào gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các chiến sĩ bị thương tùy theo điều kiện của gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự.
Sau đó, nhiều chương trình quyên góp, ủng hộ bộ đội được phát động, đáng chú ý nhất là cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ”. Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban vận động đã họp phát động phong trào may áo trấn thủ cho chiến sĩ. Chiều ngày 17/11/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam đã tổ chức lễ xung phong “Mùa đông binh sĩ”, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ” trong cả nước để giúp chiến sĩ trong mùa đông giá rét với sự có mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ. Ngay tại buổi lễ, Người đã cởi chiếc áo len đang mặc để tặng lại các binh sĩ.
Một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Bộ trưởng Bộ Thương binh cựu binh
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19/12/1946, theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đã nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, đời sống của chiến sĩ, nhất là những chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sĩ.
Ngày 16/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ, Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên) để bàn về công tác thương binh, liệt sĩ và thực hiện Chỉ thị Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn một ngày làm ngày Thương binh - Liệt sĩ. Tại cuộc họp này các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27/7 là ngày “Thương binh toàn quốc”. Từ đó hằng năm cứ vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư, quà thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Đặc biệt, từ sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến công tác thương binh, liệt sĩ.
Từ tháng 7/1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày Thương binh toàn quốc” thành “Ngày Thương binh - Liệt sĩ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Sau Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, theo Chỉ thị số 223- CT/TW, ngày 08/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27/7 hằng năm chính thức trở thành “Ngày Thương binh - Liệt sĩ” của cả nước. Ngày Thương binh - Liệt sĩ có ý nghĩa lịch sử, chính trị, xã hội sâu sắc, đó là:
- Thể hiện sự tiếp nối truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc; thể hiện sự biết ơn, trân trọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đối với những người đã hy sinh, cống hiến vì độc lập, tự do và thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân.
- Khẳng định việc chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công là vinh dự, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, tổ chức chính trị - xã hội và của mọi người, của thế hệ hôm nay và mai sau đối với sự cống hiến, hy sinh của các anh hùng, liệt sĩ, thương binh cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của Nhân dân.
- Góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, qua đó phát huy tinh thần yêu nước, củng cố và bồi đắp niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn.
Kết quả thực hiện công tác thương binh liệt sỹ
1. Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện chính sách, pháp luật, chế độ ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng
Kể từ khi Sắc lệnh số 20/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 16/02/1947 về “Quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ” đến nay, những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thương binh, liệt sĩ đã được Đảng, Nhà nước ta cụ thể hóa thành các chính sách, pháp luật ưu đãi đối với thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và hiện tại được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện, thực hiện thống nhất trong cả nước; từ đó góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp về chính trị, kinh tế và xã hội, sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước, Nhân dân và bản thân người có công với cách mạng, nâng cao nhận thức của toàn xã hội cùng với Nhà nước chăm lo cho người có công với cách mạng, phát huy truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc trong thời kỳ mới.
Từ năm 1986, cùng với công cuộc đổi mới đất nước, hệ thống chính sách, pháp luật nước ta đã có những thay đổi quan trọng để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản luật ưu đãi xã hội đối với người có công, trong đó nổi bật nhất là việc ban hành Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng năm 1994 và Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” năm 1994.
Đến năm 2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005. Năm 2020, trên cơ sở tổng kết thực tiễn việc thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trình Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (Pháp lệnh số 02/2020/UBTVQH14) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2021. Đến nay, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, và các văn bản hướng dẫn đã kịp thời thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về ưu đãi người có công với cách mạng qua các thời kỳ.
Sau 77 năm thực hiện, các chính sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và gia đình người có công với cách mạng đã được nghiên cứu, bổ sung và điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Theo đó các chế độ ưu đãi được thực hiện đa dạng gồm trợ cấp, phụ cấp hằng tháng, trợ cấp một lần và các chế độ ưu đãi khác như: Hỗ trợ y tế, giáo dục, trang cấp dụng cụ chỉnh hình, phục hồi chức năng, tạo việc làm, hỗ trợ, cải thiện nhà ở, miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất, vay vốn kinh doanh và miễn hoặc giảm thuế. Đối với mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi, từ năm 1994 đến nay, chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công được điều chỉnh gắn liền với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công, theo đó chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đã qua nhiều lần điều chỉnh, từng bước khắc phục những hạn chế về mức, về nguyên tắc và phương thức điều chỉnh độc lập với chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, phù hợp với điều kiện của ngân sách nhà nước, góp phần từng bước cải thiện, nâng cao đời sống của người có công.
Để thực hiện toàn diện, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng trong giai đoạn mới, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đặt ra yêu cầu: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú. Cân đối ngân sách để tiếp tục thực hiện việc nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, giải quyết căn bản chính sách đối với người có công; nâng cấp các công trình “đền ơn đáp nghĩa”.
Năm 2024, để chăm lo tốt hơn nữa đời sống người có công với cách mạng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/2024/NĐ-CP, ngày 01/7/2024 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2021/NĐ-CP, ngày 24/7/2021 của Chính phủ quy định mức hưởng trợ cấp, phụ cấp và các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 55/2023/NĐ- CP, ngày 21/7/2023 của Chính phủ. Theo đó, mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng được điều chỉnh từ 2.055.000 đồng lên mức 2.789.000 đồng (tăng 35,7%). Đây là mức tăng cao nhất trong các lần điều chỉnh mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng trong 20 năm qua, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống người có công, thân nhân người có công theo tinh thần của Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; phù hợp với Kết luận số 83-KL/TW, ngày 21/6/2024 của Bộ Chính trị về cải cách tiền lương; điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và trợ cấp xã hội và Nghị quyết số 142/2024/QH15, ngày 29/6/2024 của Quốc hội về Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV.
2. Công tác xác nhận, công nhận người có công với cách mạng
Công tác xác nhận, công nhận người có công với cách mạng được triển khai chặt chẽ, công khai, minh bạch theo đúng quy định của pháp luật; có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng, huy động trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đến nay, toàn quốc đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công.
Công tác rà soát, giải quyết các hồ sơ tồn đọng đã được chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện đúng quy trình, chặt chẽ, bài bản, trong đó tập trung vào các nội dung: Giải quyết hồ sơ tồn động, giải quyết chế độ cho các trường hợp liệt sĩ, thương binh và người hưởng chính sách như thương binh; hoàn thiện hồ sơ xét tặng, truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, giải quyết chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.
Trong 05 tháng đầu năm 2024, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ cấp mới 133 bằng Tổ quốc ghi công; cấp lại 4.400 Bằng Tổ quốc ghi công; Cấp trích lục 69 hồ sơ liệt sĩ; Tra cứu hơn 4.300 bộ hồ sơ; thực hiện tiếp nhận 453 mẫu hài cốt liệt sĩ để giám định ADN.
3. Công tác chăm sóc đời sống gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng
Xác định công tác chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng là trách nhiệm, tình cảm và vinh dự để thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với những người đã có công lao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, sự hưởng ứng của các bộ, ngành, đoàn thể và Nhân dân cả nước, nhiều phong trào đã được thực hiện sâu rộng với những việc làm thiết thực, nổi bật như: Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, nhà tình nghĩa, sổ tiết kiệm tình nghĩa, chăm sóc bố, mẹ liệt sĩ già, yếu, cô đơn, con liệt sĩ mồ côi, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng… Những phong trào đó đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cộng đồng dân cư, giúp người có công với cách mạng không ngừng nỗ lực vươn lên, ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần.
Ngày 25/6/2024, Chủ tịch nước Tô Lâm đã ký Quyết định số 590/QĐ-CTN về việc tặng quà nhân dịp kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2024). Theo đó, quà tặng cho người có công bao gồm hai mức 600.000 đồng và 300.000 đồng. Tổng số đối tượng được tặng quà là 1.371.586 người.
4. Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; xây dựng, tu bổ nghĩa trang, công trình tưởng niệm liệt sĩ; nâng cấp các cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng cho người có công với cách mạng
Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ được triển khai tích cực với nhiều giải pháp đồng bộ, thiết thực. Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã tìm kiếm, quy tập được hàng vạn hài cốt liệt sĩ trong nước và ở các nước bạn Lào, Campuchia, cùng với việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm giám định ADN, đẩy nhanh việc xác định danh tính các liệt sĩ, qua đó, góp phần làm vơi đi nỗi đau của thân nhân các gia đình liệt sĩ, những người cha, người mẹ, người vợ, con em liệt sĩ đang khắc khoải đợi chờ. Cấp ủy, chính quyền các địa phương đã quan tâm chỉ đạo, đầu tư xây dựng, nâng cấp, tu bổ mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công liệt sĩ với hơn 3.200 nghĩa trang liệt sĩ và trên 3.000 các công trình ghi công liệt sĩ trên khắp cả nước. Hàng năm, ở Trung ương và địa phương đều bố trí kinh phí để tu bổ, nâng cấp mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, bia ghi danh liệt sĩ, đền thờ liệt sĩ, bảo đảm bền vững, trang trọng nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân về việc tôn vinh, thăm viếng mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, có ý nghĩa giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng. Mạng lưới các cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng, chỉnh hình, phục hồi chức năng được quy hoạch tổng thể, rộng khắp trong cả nước, được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và bố trí nhân sự đủ để đáp ứng cơ bản yêu cầu chăm sóc, điều dưỡng người có công, nhất là thương binh nặng.
BBT (Tổng hợp)
Trang 1 / 7