Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã lùi xa trên 50 năm; Nhưng những ký ức của một thời đạn bom đánh Mỹ thì còn đang lưu giữ mãi trong những con người đã và từng đi qua chiến tranh, những người đã trực tiếp xây dựng những con đường huyền thoại, sân bay dã chiến; Đặc biệt là với bà Lê Thị Kim Nhơn, ở thành phố Hà Tĩnh, một cựu TNXP đã tham gia xây dựng con đường 22 và sân bay dã chiến, từng thoát nạn trong trận bom rải thảm B52 những năm tháng chiến tranh, bà từng tâm sự:
“Tôi nhớ mãi Libi dã chiến
Trên con đường chiến lược 22
Nơi đây địch đánh B 52
Cướp nhiều tính mạng đổ nhiều máu xương
Hoá thành một bãi chiến trường
Xương rơi máu chảy đỏ đường 22
Thế hệ trẻ nay mai phải biết
Nỗi đau này khắc nhớ ghi tâm
Quyết không đổi dạ thay lòng
Cùng nhau bảo vệ non sông đến cùng”
Libi dã chiến là gì? Con đường chiến lược 22 ra sao? Tại sao đế quốc Mỹ lại rải thảm bom B52 trên vùng đất này? Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta trở lại lịch sử của những năm đầu cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Bị thất bại liên tiếp và nặng nề trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đế quốc Mỹ đã đem hàng vạn quân chủ lực vào chiến trường miền Nam. Đồng thời mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Dấu tích đường băng Sân bay Libi tại lòng hồ Kẻ Gỗ
Đầu năm 1965, với mưu đồ chặn đứng và cắt đứt Quốc lộ IA tại Đèo Ngang- Hà Tĩnh và vùng Địa Lợi, Chu Lễ thuộc huyện Hương Khê trên đường 15A, suốt ngày đêm các tuyến đường này liên tục bị đế quốc Mỹ đánh phá hết sức ác liệt. Trước tình hình đó, Bộ Giao thông vận tải chủ trương giành thế chủ động trong vận tải, bằng cách mở thêm các tuyến đường song song, để tránh các trọng điểm đánh phá của địch, đồng thời bảo đảm chi viện kịp thời cho chiến trường. Để giải toả các ách tắc trên các tuyến đường 15A, 15B, đặc biệt là phà Địa Lợi, nơi đế quốc Mỹ liên tục đánh phá và hàng loạt những cầu xung yếu trên tuyến đường 15 và đường tránh Đèo Ngang, thực hiện chủ trương của Bộ Giao thông vận tải, Ty Giao thông Hà Tĩnh đã tổ chức khảo sát thiết kế và tổ chức lực lượng tham gia mở đường mới 21. Đường khởi đầu từ Khe Giao men theo núi Trà Sơn đến Thình Thình, dọc hữu ngạn sông Ngàn Sâu vào Tân Ấp (tỉnh Quảng Bình). Sau khi thông xe, đã tạo tuyến vận tải vô cùng quan trọng hỗ trợ cho Quốc lộ IA và Quốc lộ 15.
Tuy nhiên, cuối năm 1966, đế quốc Mỹ mở rộng đánh phá ác liệt xuống Quốc lộ IA để ngăn chặn những đoàn xe vận tải vào Quảng Bình, Bộ Giao thông vận tải quyết định mở tiếp đường 22. Tuyến đường với chiều dài khoảng 65km, khởi đầu từ Ngã ba Thình Thình thuộc xã Thạch Điền (huyện Thạch Hà) đi qua vùng Kẻ Gỗ vào các xã Kỳ Thượng, Kỳ Lạc (huyện Kỳ Anh) đến huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Các lực lượng tham gia xây dựng trên tuyến đường gồm 4 Tổng đội TNXP từ ngoài Bắc vào và bộ đội chủ lực với trên 6.000 người. Tuyến đường đi qua lòng hồ Kẻ Gỗ ngày nay dài khoảng 25km. Sau 3 tháng thi công trong điều kiện vô cùng gian khổ khó khăn, nỗ lực chặt cây, mở lối, xẻ đồi, đào đất đá, tuyến đường 22 đã được thông xe, phục vụ vận tải thông suốt, kịp thời đưa hàng hoá và vũ khí vào chiến trường.
Trong những tháng năm 1966-1972, đế quốc Mỹ tăng cường đánh phá vào các trọng điểm trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh như Ngã ba Đồng Lộc, xã Tiến Lộc- Cầu Già thuộc huyện Can Lộc - Thạch Hà, phà Linh Cảm huyện Đức Thọ và dọc Quốc lộ 1A trên các huyện thị của Hà Tĩnh, nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Tất cả các tuyến đường dọc Quốc lộ 1A, 15A, 15B đều bị địch đánh phá, băm nát và cắt đứt. Để chống lại, quân và dân Hà Tĩnh với khẩu hiệu “Xe chưa qua nhà không tiếc”, quyết tâm mở đường thông xe vào chiến trường. Cho nên chúng ta đã bí mật mở rất nhiều tuyến đường và xây dựng các căn cứ kho tàng quân sự, sân bay dã chiến để tiếp nhận hàng hoá và sẵn sàng đánh địch đổ bộ đường không. Sân bay dã chiến Libi đã ra đời trong bối cảnh đó.
Nhận thấy ở khu vực Động Nậy- khe Mụ Cài, trên đầu nguồn khe nước suối có tên Libi ở xã Cẩm Mỹ huyện Cẩm Xuyên, cạnh đường chiến lược 22 có một thung lũng rất rộng lại bằng phẳng, xung quanh có rừng núi bao bọc. Cho nên vào ngày 30/9/1972, được sự chỉ đạo của Bộ quốc phòng, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức xây dựng sân bay dã chiến mang tên Libi (manh mật danh Công trình 723) và điều động 92 công nhân xây dựng từ các đơn vị ở thị xã Hà Tĩnh, huyện Thạch Hà và 36 công nhân của Xí nghiệp gạch ngói Cẩm Thành lúc bấy giờ, do ông Đinh Trương Đôn, Giám đốc xí nghiệp vôi Đò Điệm làm Đại đội trưởng chỉ huy vào phối hợp với các đơn vị của Bộ Tư lệnh công binh tổ chức thi công. Việc xây dựng sân bay rất khẩn trương, ban đêm bộ đội công binh lái máy ủi, máy xúc, máy lu san lấp đất đá, tạo thành một đường băng dài 1,6km, rộng 30m, đảm bảo vừa đủ cho máy bay quân sự cất và hạ cánh. Đến mờ sáng thì công nhân xây dựng lên rừng chặt lá, cây sim, cây mua về đặt phủ mặt đường băng để nguỵ trang, tối đến cần thi công chỗ nào thì các chị công nhân lại dọn cây lá. Sau gần 4 tháng xây dựng sân bay Libi đã cơ bản hoàn thành. Đây là sân bay dã chiến nhằm phục vụ cho chiến trường Quảng Trị - Thừa Thiên, đặc biệt có nhiệm vụ quan trọng trong việc chống lại chiến dịch Lam Sơn- 719 của Mỹ - nguỵ, một chiến dịch leo thang với âm mưu lập vành đai lửa cắt đứt tuyến đường vận chuyển từ Đèo Ngang sang Lào, nhằm ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam.
Chính vì vậy ngay sau khi phát hiện sân bay Libi, vào lúc 3 giờ sáng ngày 07/1/1973, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc rải thảm bom B52 đầy khốc liệt ở khu vực này; Và có lẽ đây là một trong những cuộc tập kích cuối cùng và gây tổn thất lớn cho quân dân Hà Tĩnh, bởi chỉ 20 ngày sau, ngày 27/1/1973 Hiệp định Pa-ri được ký kết, chấm dứt chiến tranh trên miền Bắc và từ thời điểm đó cuộc chiến chỉ còn diễn ra trên đất miền Nam. Cuộc ném bom rải thảm này đã giết hại 32 người và 48 người bị thương, lúc mọi người đang nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt nhọc trên công trường xây dựng sân bay, trong đó có 16 nữ công nhân, nhiều người tuổi đời còn rất trẻ, quê quán hầu hết ở các huyện thị của tỉnh Hà Tĩnh. Đây là một tổn thất vô cùng to lớn.
Sự kiện lịch sử đau thương này cho đến nay có rất ít thông tin về việc xây dựng sân bay dã chiến Libi và cuộc tập kích của đế quốc Mỹ ngày 07/01/1973. Có lẽ do tính chất xây dựng trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, lại là công trình quân sự có tính bí mật, cho nên các thông tin ghi chép về sự kiện này ít được đề cập. Hơn nữa, năm 1976-1979, tỉnh Nghệ Tĩnh đã cho xây dựng công trình Đại thuỷ nông Kẻ Gỗ với sức chứa 345 triệu m3, đã nhấn chìm toàn bộ cung đường 22 huyền thoại và sân bay dã chiến Libi ở phía thượng nguồn. Tuy vậy, nhờ lượng nước của hồ Kẻ Gỗ lưu giữ mà trải qua thời gian trên 50 năm, các chứng tích vẫn còn vẹn nguyên là bãi chiến trường với chằng chịt các hố bom to nhỏ nông sâu khác nhau phát lộ khi mùa nước cạn, trông không khác gì những hố bom rải thảm ở khu vực di tích Quốc gia đặc biệt Ngã ba Đồng Lộc trên đường mòn Hồ Chí Minh những năm 1965-1968… Sân bay dã chiến sắp đưa vào sử dụng đã bị đế quốc Mỹ rải bom phá hủy, nhưng qua công trình này cũng đã thể hiện được rất lớn ý chí quyết tâm của quân và dân Hà Tĩnh trong công cuộc chiến đấu để giành chiến thắng, trong cuộc chiến tranh không cân sức giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại. Nhân dân ta với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, và với một ý chí “địch phá một ta làm mười, đường ta cứ đi là xe ta cứ chạy”, và cuối cùng nhân dân Việt Nam đã chiến thắng, nhân dân Hà Tĩnh đã chiến thắng.
Năm 2011, trên một ngọn đồi cao thoai thoải cạnh các hố bom xưa, nhân dân địa phương và du khách xa gần đã góp công sức tiền của xây dựng một miếu thờ những người đã anh dũng hy sinh khi làm nhiệm vụ xây dựng sân bay dã chiến Libi và con đường 22 huyền thoại. Miếu xây dựng với qui mô nhỏ nhưng ấm cúng, được nhân dân và các du khách đến thắp hương tưởng nhớ mỗi khi có dịp đến đây. Mặt trước miếu thờ có đôi câu đối rất ý nghĩa:
“Chiến công xứ sở Kẻ Gỗ vang khúc trường ca Dũng sỹ
Huyền thoại con đường Hai Hai rạng danh chứng tích Anh hùng”
Miếu thờ Liệt sĩ hồ Kẻ Gỗ đã được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh tại quyết định số 413/QĐ-UBND ngày 27/01/2014. Trong những năm gần đây, Tạp chí Đầu tư Tài chính- VietnamFinance đã phối hợp với Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ đứng ra vận động tài chính theo hình thức xã hội hóa xây dựng Đền thờ Anh hùng Liệt sĩ tại lòng hồ Kẻ Gỗ. Công trình được xây dựng để khắc ghi tên tuổi, tưởng nhớ tri ân các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trên con đường 22 và sân bay dã chiến Libi huyền thoại, đồng thời cũng gửi gắm một thông điệp đến các thế hệ tương lai về khát vọng hoà bình và phát triển bền vững.
ThS. Nguyễn Trí Sơn
Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Hà Tĩnh
Công trình quốc phòng 723, tức sân bay dã chiến Libi đã được xây dựng như là một phần trong hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cuộc chiến tranh chống Mỹ, cùng với các tuyến đường chiến lược 21, 22 trong hệ thống đường Trường Sơn. Để hiểu thêm về vai trò của sân bay này, cần đặt trong bối cảnh chiến tranh vào thời điểm đó, khi mà không quân đã được cả hai phía sử dụng.
Để các cuộc không kích được thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu quả, các sân bay dã chiến đã được xây dựng cả ở miền Nam và miền Bắc trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Đây là những sân bay đơn giản, thường là một đường băng thô sơ được xây dựng trên một khu vực có địa hình bằng phẳng, chỉ cần đủ điều kiện để các loại máy bay chiến đấu cất hạ cánh.
Vào những thập niên 1966 - 1968, Sân bay Tà Cơn là một mắt xích quan trọng trong phòng tuyến Khe Sanh của Mỹ ở Quảng Trị, được xem là trung tâm chỉ huy của hệ thống căn cứ tại đây đồng thời là nơi tập trung nhiều binh lính, vũ khí và bố trí hỏa lực mạnh nhất ở Khe Sanh.
Toàn sân bay Tà Cơn giống như một lòng chảo với bốn bề là núi non, bên trong xây dựng rất quy mô, có sở chỉ huy, đài chỉ huy, đài liên lạc… cùng nhiều hệ thống công sự phòng ngự dày đặc, ở giữa là đường băng được lát bằng hàng ngàn tấm ri nhôm và ri sắt, là nơi cất, hạ cánh cho các loại máy bay chuyên vận tải quân sự hạng nặng, máy bay trực thăng chở quân và trực thăng vũ trang các loại.
Sân bay Tà Cơn được quân đội Mỹ xem như một pháo đài bất khả chiến bại. Nhưng trước sức mạnh những cuộc tiến công giải phóng Khe Sanh của QĐND Việt Nam từ tháng 2 đến tháng 07/1968, quân đội Mỹ không còn cách nào khác ngoài việc mở cuộc rút quân chiến thuật bằng không quân nhằm cứu hàng nghìn lính Mỹ ra khỏi nơi đây. Buộc phải bỏ và phá hủy căn cứ, quân đội Mỹ đã thất bại hoàn toàn trên chiến trường Quảng Trị khi để cứ điểm rơi vào tay Quân Giải phóng. Sau ngày giải phóng, sân bay Tà Cơn không còn hoạt động mà trở thành nơi lưu trữ các hiện vật, chứng tích của cuộc chiến tranh.
Dấu tích đường băng sân bay Libi tại lòng hồ Kẻ Gỗ
Tại huyện A Lưới (Huế), trong giai đoạn từ 1957 đến 1965, Mỹ - Ngụy đã xây dựng các sân bay quân sự và sân bay dã chiến phục vụ cho mục đích chiến tranh, đàn áp các phong trào cách mạng của ta. Các sân bay trên địa bàn huyện rải rác khắp nơi như Hồng Thượng, Hồng Thái và sân bay Đông Sơn là sân bay quân sự quan trọng nhất của Mỹ đặt tại A Lưới.
Trong số này, sân bay A Co được xây dựng ở thôn Tà Vạt, xã Hồng Thượng, cách ngã ba Bốt Đỏ (ngã ba đường 72 - 14B) 2 km về hướng Tây Nam, cách thành phố Huế 72 km về hướng Đông theo đường 12 cũ. Từ năm 1963 đến 1964 dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và đồng bào dân tộc A Lưới cùng với Mặt trận giải phóng miền Nam nổi dậy khởi nghĩa đánh phá ấp chiến lược, đánh chiếm đồn Bốt Đỏ, sân bay A Co. Cuộc khởi nghĩa đã giành được thắng lợi to lớn, nhân dân A Lưới đã giành được sân bay A Co một cách nhanh chóng. Cuộc nổi dậy đã gắn liền với anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Kăn Đờm (Hồ Thị Đơm).
Sân bay A Cuốn thuộc địa phận xã Hồng Thượng nay là xã Hồng Thái. Sân bay nằm bên dòng sông A Sáp, giáp với ngã ba sông Tà Rình, được xây dựng năm 1960 của Mỹ - Ngụy để thực hiện chiến lược ngăn chặn tuyến hành lang Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây, kiểm soát và ngăn chặn con đường liên lạc giữa A Lưới và đồng bằng.
Trong khi đó, sân bay A Lưới là sân bay có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, kinh tế của huyện, cách thành phố Huế 72 km về hướng Tây Bắc theo quốc lộ 49 và đường Hồ Chí Minh. Sân bay được xây dựng vào tháng 8/1957, là trung tâm huấn luyện biệt kích Mỹ - Ngụy từ Đông sang Tây, chặn ngang mạch máu nối liền từ Bắc vào Nam của quân ta. Vì thế nó được Mỹ ưu tiên hàng đầu, nếu làm chủ được nơi này thì sẽ tạo điều kiện cho việc kiểm soát toàn bộ tình hình của huyện. Ngày 09/01/1965 từ các hướng bộ đội ta đã đồng loạt nổ súng tấn công đồn địch làm cho địch bất ngờ không trở tay kịp và chỉ trong thời gian ngắn chúng ta đã chiếm được sân bay A Lưới, giải phóng toàn bộ vùng đất từ Hồng Vân đến Hương Lâm tạo đà cho những thắng lợi tiếp theo.
Một sân bay khác là sân bay A So nằm trên địa phận thôn Sam, xã Đông Sơn cách đường Hồ Chí Minh 2km về phía Đông. Từ năm 1955 đến 1959 chính quyền Ngô Đình Diệm được tiếp sức của đế quốc Mỹ đã xây dựng nhiều đồn bốt ở vị trí xung yếu ở A So, Bốt Đỏ, A Co... xây dựng trại tập trung dồn đồng bào ta vào trại, ấp chiến lược nhằm cô lập với cách mạng. Song càng đàn áp, càng cô lập thì tinh thần yêu nước càng trỗi dậy, không chịu khuất phục, tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào Bác Hồ nên các phong trào đấu tranh càng diễn ra mạnh mẽ và ngày càng rộng rãi.
Để đối phó lại, năm 1960 Mỹ tiến hành xây dựng sân bay A So ở khu vực này, nhằm tăng cường tiềm lực chống phá cách mạng, nhất là sự lớn mạnh của tuyến đường Hồ Chí Minh.
Về phía ta, sân bay Khe Gát tại Quảng Bình là một ví dụ điển hình. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Quảng Bình là tuyến đầu chi viện sức người, sức của cho chiến trường Miền Nam. Nhận thức được điều này, Hải quân Mỹ liên tục cho tàu khu trục vào gần bờ bắn phá các mục tiêu quân sự, kinh tế, giao thông ven biển Quảng Bình nhằm khống chế và uy hiếp các hoạt động trên biển và ven biển của ta, trong đó, các trọng điểm bắn phá chủ yếu gồm cửa Gianh, cửa Lý Hòa, Đèo Ngang, cửa Nhật Lệ.
Để đối phó với tình hình nói trên, cuối năm 1968, Bộ Quốc phòng chủ trương xây dựng sân bay dã chiến với mật danh “B7” tại thôn Khe Gát, xã Xuân Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình để yểm trợ cho tuyến đường Trường Sơn đồng thời chia lửa cho sân bay Đồng Hới. Nhiệm vụ xây dựng sân bay được giao cho Tiểu đoàn 28 Công binh (nay là Lữ đoàn 28 Công binh thuộc Quân chủng Phòng không – Không quân) cùng với sự giúp đỡ của quân dân địa phương và thanh niên xung phong xã Xuân Trạch. Sân bay được xây dựng trong điều kiện trinh thám rất ác liệt của các loại máy bay trinh sát như OV10, SR71 ngày đêm quần thảo trên bầu trời Trường Sơn. Với biết bao khó khăn, gian khổ và nguy hiểm, sân bay dã chiến Khe Gát đã được hoàn với đường băng dài hơn 1,8 km, rộng 50m và có đường dẫn máy bay vào hang trú ẩn.
Ngày 18/4/1972, Đoàn Không quân Yên Thế được lệnh bí mật đưa máy bay vào Khe Gát. Hai chiếc MiG-17 do phi công Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy (Bảy B) lái, đưa từ sân bay Kép về Gia Lâm, rồi từ đó vào Vinh và bí mật hạ cánh xuống sân bay Khe Gát trong đêm.
Chiều ngày 19/4/1972, Trạm rađa 403 ở Nhật Lệ (Đồng Hới, Quảng Bình) phát tín hiệu cảnh báo về một nhóm tàu chiến của Mỹ xuất hiện ngoài khơi bờ biển Nhật Lệ đến Bố Trạch. Nhóm tàu chiến này gồm các tàu: tuần dương hạm USS Oklahoma City, hai khu trục hạm là USS Higbee và USS Lloyd Thomat, cùng với tàu hộ tống tên lửa USS Sterett.
Đúng 16 giờ 05 phút, hai chiếc máy bay MiG-17 do các phi công Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy B từ sân bay Khe Gát xuất kích. Khi bay qua cửa Lý Hòa, phát hiện được mục tiêu, lúc 16 giờ 13 phút, được lệnh của chỉ huy từ mặt đất, Lê Xuân Dị nhanh chóng cắt bom vào chiếc tàu Khu trục hộ tống USS Higbee theo phương pháp ném bom “thia lia”. Tàu Khu trục hộ tống USS Higbee phát nổ, tạo nên một cột khói lớn, chiếc tàu bị thương nặng, dàn pháo trên boong tàu bị phá hủy. Chiếc MiG -17 thứ 2 do Nguyễn Văn Bảy B tiếp tục bay vòng ra biển, khi đến gần cửa Dinh thì phát hiện đội hình địch. Nguyễn Văn Bảy B cho máy bay lướt qua phía trên tàu địch rồi vòng lại và cắt bom vào chiếc tàu Tuần dương hạm USS Oklahoma City, khiến chiếc tàu bị hỏng hệ thống ra đa cảnh giới và một ụ pháo trên boong. Hai phi công sau khi thực hiện nhiệm vụ đã quay trở về sân bay Khe Gát an toàn.
Chỉ khoảng 30 phút sau, các máy bay Mỹ từ tàu sân bay ngoài khơi bay vào đánh phá sân bay Đồng Hới. Ba ngày sau đó, Không quân Mỹ phát hiện ra sân bay Khe Gát và triển khai đánh phá dữ dội sân bay cùng tuyến đường 15A và các cụm dân cư ở xã Xuân Trạch.
Sân bay dã chiến Khe Gát có ý nghĩa lịch sử đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta và trong lịch sử chiến đấu và trưởng thành của Không quân nhân dân Việt Nam. Trận “không đối hạm” ngày 19/4/1972 là trận đánh đầu tiên mà MiG-17 của chúng ta tấn công chiến hạm Mỹ, khiến cho Hải quân Mỹ không dám đánh phá bờ biển Quảng Bỉnh trong nhiều tháng, đồng thời đã “chứng minh các phi công Việt Nam có thể làm chủ kỹ thuật, phát huy cao nhất tính năng của máy bay MiG, dũng cảm sáng tạo trong cách đánh, không chỉ dùng máy bay MiG lập công trong không chiến mà còn có thể tấn công các mục tiêu mặt đất, mặt nước theo nhiệm vụ được giao”.
Giờ đây, sân bay dã chiến Khe Gát đã không còn nguyên trạng, nhưng với trận “không đối hạm” huyền thoại và độc đáo ấy, sân bay Khe Gát đã trở thành là một trong những di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của hệ thống di tích lịch sử Đường Hồ Chí Minh trong lòng Di sản thiên nhiên thế giới VQG Phong Nha – Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình, là địa chỉ đỏ về giáo dục truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của quân và dân ta. Hiện nay, đường băng sân bay này vẫn còn tồn tại và một đoạn đường Hồ Chí Minh vẫn đang chạy trên đường băng này.
Trở lại với sân bay dã chiến Libi, do các tư liệu về sân bay này quá ít ỏi, hoặc vẫn đang được giữ bí mật nên hiện chưa rõ mối liên hệ với sân bay Khe Gát và các sân bay khác. Tuy nhiên, cuộc xuất kích từ Khe Gát diễn ra trong tháng 4/1972 và sau đó sân bay bị lộ, bị đánh phá nên việc sử dụng không còn khả thi, trong khi đó việc triển khai sân bay Libi được thực hiện từ tháng 9/1972, rất có thể là một giải pháp để thay thế?! Và trận không kích bi thảm ngày 7/1/1973 cũng hoàn toàn có thể là một đòn đánh phủ đầu của quân đội Mỹ nhằm chặn trước các nguy cơ tái diễn các vụ không kích của không quân Miền Bắc như đã từng thực hiện từ sân bay Khe Gát.
Bình An
Sân bay Libi nằm dưới lòng hồ Kẻ Gỗ (Cẩm Mỹ, Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh) được xây dựng nhằm phục vụ vận tải, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của không quân Việt Nam. Tuy nhiên, thông tin về quá trình xây dựng sân bay và trận bom ác liệt nơi đây hầu như chỉ thông qua lời kể của các nhân chứng, hoặc qua một số hình ảnh hiện trạng; các tư liệu lịch sử rất hiếm hoi và hầu như không có.
May mắn khi tác giả được kết nối với một số nhân vật và khai thác được các tài liệu lưu trữ từ Mỹ. Đây là nguồn tư liệu lần đầu tiên được khai thác và công bố, có thể coi là những chứng cứ xác thực nhất từ trước đến nay về sân bay Libi. Từ đó, có thể khẳng định thêm về sự tồn tại của sân bay Libi, những đánh phá ác liệt của Mỹ và sự hi sinh anh dũng của 34 liệt sỹ trong trận bom rạng sáng 7/1/1973.
Sân bay gần nhất để miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam
Do các tuyến đường quốc lộ bị chia cắt bởi bom đạn, cuối năm 1966, Bộ Giao thông Vận tải quyết định triển khai xây dựng tuyến đường chiến lược 22. Tuyến đường này dài 65km, từ ngã ba Thình Thình (xã Nam Điền, huyện Thạch Hà) đi vòng qua vùng hồ Kẻ Gỗ (xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên) và nhiều xã thuộc huyện Kỳ Anh rồi kết thúc tại huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình), đã được hoàn thành vào cuối năm 1970 - đầu năm 1971. Hồ Kẻ Gỗ lúc bấy giờ chưa đắp đập, tích nước như bây giờ nên một phần tuyến đường 22 đi qua vùng lòng hồ.
Tháng 9/1972, lực lượng quốc phòng đã chọn một đoạn đường 22 tại vùng Đá Bạc (khu vực lòng hồ Kẻ Gỗ hiện tại) để xây dựng công trình quốc phòng 723 (còn gọi là Sân bay dã chiến Libi - tên đặt theo một khe suối ở làng Đá Bạc, xã Cẩm Mỹ).
Vị trí đường 22 trên bản đồ quân sự Mỹ in năm 1974
92 công nhân kiến trúc, 36 công nhân xí nghiệp gạch Cẩm Thành, xí nghiệp Vôi Đò Điệm được điều động vào công trình để xây dựng sân bay. Đường băng sử dụng tuyến đường 22, nhưng được san gạt 2 bên rộng ra so với các đoạn khác. Sân bay dã chiến Libi gắn với tuyến đường 22 được xác định là sân bay gần nhất để miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam. Cuối năm 1972, đầu năm 1973, sân bay cơ bản hoàn thành nhưng bị địch đánh phá ác liệt.
Trận bom rạng sáng 7/1/1973 đã làm 34 người hy sinh. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, chủ yếu là công nhân địa phương Hà Tĩnh đã tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của quân và dân Hà Tĩnh trong suốt thời kỳ chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm 1976, hòa bình lập lại, cấp trên cho chủ trương xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ để thúc đẩy phát triển nông nghiệp. Hồ Kẻ Gỗ hoàn thành và tích nước, đưa mặt trận xưa chìm vào lòng hồ.
Những tài liệu mới, giải mật từ tư liệu của Mỹ
Quá trình xây dựng sân bay Libi và sự hy sinh của các liệt sỹ được chứng minh thêm qua một số tài liệu giải mật, cung cấp từ phía Mỹ, gồm các báo cáo, hình ảnh, tư liệu, chứng tỏ phía Mỹ theo dõi chặt chẽ quá trình xây dựng sân bay, đồng thời thông tin chi tiết về những trận bom dội xuống nơi đây. Đây là nguồn tư liệu lần đầu tiên được khai thác và công bố, có thể coi là những chứng cứ xác thực nhất từ trước đến nay về sân bay Libi. Những thông tin này củng cố thêm từng câu chuyện mà các nhân chứng lịch sử đã kể.
Theo các tài liệu mới được Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh khai thác từ nguồn tổng hợp của ông Lâm Hồng Tiên (Láng Thượng - Đống Đa - Hà Nội), trong các Báo cáo của quân đội Mỹ đã giải mật, bức không ảnh chụp ngày 9/7/1972 chưa thể hiện hình ảnh đường băng sân bay Libi. Điều đó thể hiện việc xây dựng sân bay Libi được triển khai vào cuối năm 1972 trở về sau.
Trong “Bản tổng hợp tin tình báo của Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA), phát hành ngày 5/1/1973”, các hình ảnh và tài liệu cho thấy vị trí sân bay Libi (tài liệu Mỹ ghi là Ngon Rao Pheo) cách Thành phố Vinh 40 dặm về phía Nam. Địa danh Ngọn Rào Pheo và Rào Pheo cũng được thể hiện trên bản đồ quân sự Mỹ năm 1966. Ngọn Rào Pheo chính là khe suối đối diện với Khe suối Libi qua đường 22.
Thêm vào đó, theo “Báo cáo phân tích không ảnh do thám từ 22/3/1973 - 04/4/1973 của Trung tâm phân tích hình ảnh quốc gia (Mỹ)”, phía Mỹ khẳng định sân bay “Ngon Rao Pheo” được xây dựng ở tọa độ 18-07-46N 105-57-43E. Đây là tọa độ trùng với vị trí trong lòng hồ Kẻ Gỗ. Báo cáo cho rằng, sân bay mới đang là đường băng đất hướng Tây Bắc - Đông Nam. Tại thời điểm do thám, có tối thiểu 4 thiết bị hạng nặng chở đất đỗ ở đầu đường băng (hướng Tây Bắc) và không thấy công trình phụ trợ tại sân bay.
Hình ảnh chụp từ trên cao ngày 9/7/1972 tại khu vực đường băng sân bay Libi
Hình ảnh bản đồ khu vực có sân bay Libi (Ngon Rao Pheo) từ tài liệu của Mỹ
Trong “Báo cáo phân tích không ảnh do thám từ 18/12/1973 - 13/1/1974 của Trung tâm phân tích hình ảnh quốc gia (Mỹ)”, tài liệu khẳng định việc xây dựng sân bay Libi ở cùng tọa độ trong lòng hồ Kẻ Gỗ hiện tại. Tài liệu này cho rằng sân bay đã ở trong trạng thái hoạt động.
Bức ảnh vệ tinh ngày 20/3/1973 được Cựu chiến binh Mỹ Richard Magner cung cấp, đã có hình ảnh đường băng sân bay Libi. Căn cứ theo ảnh, độ dài của đường băng khoảng 1600m, rộng 30m.
Qua nghiên cứu một số tài liệu, đặc biệt là cuốn Lịch sử Lữ đoàn công binh công trình 229(1), hầu như không có lực lượng “chuyên nghiệp” nào thực hiện việc xây dựng đường băng sân bay Libi.
Cùng với lời kể của các nhân chứng, có thể tạm khẳng định rằng, việc xây dựng sân bay Libi được triển khai sau tháng 7/1972, trong khoảng thời gian rất ngắn, chưa đến 6 tháng. Lực lượng chính xây dựng sân bay là công nhân kiến trúc, công nhân Xí nghiệp gạch Cẩm Thành, do ông Đinh Trương Đôn - Giám đốc Xí nghiệp Vôi Đò Điệm làm C trưởng (Đại đội trưởng) - được điều động vào công trình để xây dựng sân bay. Quá trình xây dựng, hình thành sân bay được phía Mỹ theo dõi rất sát sao, liên tục.
Những trận bom…
Theo số liệu của không quân Mỹ tại Lưu trữ quốc gia Mỹ, có ít nhất 5 trận bom đánh phá khu vực đường 22 và sân bay Libi. Ngày 5/1/1973, tài liệu của Mỹ khẳng định có sân bay Libi, thì ngày 6/1/1973 (giờ GMT), phía Mỹ đã dùng B52 đánh phá. Theo tại liệu được công bố, trận bom ác liệt vào ngày 6/1/1973 (giờ GMT), tức là rạng sáng ngày 7/1/1973, giờ Hà Nội, Mỹ đã dùng 12 máy bay B52, xuất phát từ sân bay Utapao, chở theo 404 tấn bom thả xuống sân bay Libi từ 3h10 đến 3h17 (giờ Hà Nội) tại các tọa độ được định vị rất rõ, trong đó có 1 tọa độ ngay sát vị trí Đền thờ sân bay hiện tại. Khung thời gian này cũng khớp với lời kể của các nhân chứng về sự hy sinh anh dũng của 34 liệt sỹ. Ngoài ra, phía Mỹ còn dùng 3 máy bay B52 thả thêm một đợt bom vào rạng sáng ngày 12/1/1973, ở tuyến đường 22, tọa độ gần sân bay Libi.
Các tài liệu cho thấy, phía Mỹ đã theo dõi và quyết định đánh phá ác liệt sân bay Libi vào đầu tháng 1/1973, và tiếp tục theo dõi mọi diễn biến của sân bay trong suốt các năm 1973-1974.
Toạ độ thả bom trong các ngày 7/1/1973 và 12/1/1973
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, sân bay Libi lặng lẽ nằm yên dưới lòng hồ Kẻ Gỗ. Thế nhưng những dấu tích in hằn một thời oanh liệt của lịch sử vẫn còn đó. Những câu chuyện về quá trình xây dựng sân bay, trận bom các liệt đã diễn ra và cả những chiến công, hy sinh, mất mát của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và người dân địa phương vẫn còn mãi.
Nhắc lại câu chuyện về sân bay Libi, tìm kiếm những cứ liệu lịch sử liên quan không chỉ là để nhắc nhớ về dấu ấn của một thời kỳ chiến đấu oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mà còn là bài học để thế hệ hôm nay thêm trân trọng giá trị của hòa bình. Từ đó, phát huy trách nhiệm, tiếp tục gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
Trần Nhật Tân
Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Hà Tĩnh
Từ năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam đã được mở ra. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, tháng 3/1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) ra Nghị quyết về vấn đề xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, Nghị quyết chỉ rõ: “Phương châm xây dựng quân đội của chúng ta là tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hoá và hiện đại hoá”.
Đến năm 1960, quân đội ta đã có bước trưởng thành mới, từ lực lượng chủ yếu là bộ binh với tổ chức chưa thật thống nhất, vũ khí, trang bị còn thiếu thốn đã trở thành quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các lực lượng: Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng.
Ở miền Nam, trong những năm 1954 - 1960, Mỹ - Diệm thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, gây ra những tổn thất nặng nề cho cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (1/1959) nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng. Chấp hành nghị quyết của Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng đã quyết định đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng quân đội. Việc chuẩn bị cho bộ đội ta vào miền Nam chiến đấu cũng được xúc tiến. Theo đó, Sư đoàn 338 bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc đã được tập trung huấn luyện trước khi lên đường vào Nam chiến đấu. Ngày 19/5/1959, Đoàn 559 được thành lập với nhiệm vụ mở đường dọc dãy Trường Sơn bảo đảm cho lực lượng ta vào Nam chiến đấu và vận chuyển lương thực, súng đạn từ miền Bắc vào miền Nam. Tiếp đó, Đoàn 759 cũng được thành lập với nhiệm vụ vận chuyển, tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam theo đường biển.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 đã mở đường cho cách mạng miền Nam đi đến thắng lợi. Để đẩy mạnh cao trào cách mạng của quần chúng, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ngày 15/2/1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam; đây là bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp hoạt động trên chiến trường miền Nam.
Từ năm 1961, đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Được cố vấn Mỹ chỉ huy và dựa vào hỏa lực Mỹ chi viện, ngụy quân Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân đánh phá vùng giải phóng, gom dân lập “ấp chiến lược”. Quân và dân ta đã liên tục chiến đấu, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Trong đó, tiêu biểu là chiến thắng Ấp Bắc (1/1963) mở đầu cho sự thất bại của chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của quân ngụy Sài Gòn; đồng thời mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” sôi nổi khắp miền Nam.
Ngày 5/8/1964, sau sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, chính quyền Mỹ sử dụng không quân bất ngờ mở cuộc tiến công mang tên “Mũi tên xuyên”, đánh phá vào hầu hết các căn cứ của hải quân ta trên suốt dải ven biển miền Bắc. Nhờ chuẩn bị từ trước, các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã kịp thời phát hiện, mưu trí, dũng cảm chiến đấu, bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương 2 chiếc khác, bắt 1 phi công. Trận đầu đánh thắng không quân Mỹ đã cổ vũ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân dân cả nước.
Trên cơ sở những thắng lợi trong năm 1963 và đầu năm 1964, tháng 10/1964, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam mở đợt hoạt động Đông Xuân 1964 - 1965, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, mở rộng vùng giải phóng. Sau các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài của ta giành thắng lợi, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ hoàn toàn bị phá sản.
Từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân chiến đấu của Mỹ và đồng minh cùng khối lượng lớn phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam, đồng thời củng cố và tăng cường quân ngụy. Toàn bộ mục tiêu chiến lược của đế quốc Mỹ trong giai đoạn này là “tìm và diệt” chủ lực Quân Giải phóng và cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam, “bình định” miền Nam, uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân Việt Nam, buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngồi vào bàn đàm phán theo những điều kiện áp đặt của Mỹ.
Trước tình hình đó, từ tháng 9 đến tháng 12/1965, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập tại chiến trường miền Nam 5 sư đoàn bộ binh (9, 3, 2, 5, 1) và một đơn vị pháo binh tương đương cấp sư đoàn mang phiên hiệu Đoàn pháo binh 69. Vừa xây dựng, vừa chiến đấu, bộ đội ta trên các chiến trường miền Nam đã tổ chức các trận tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - ngụy, mở ra phong trào “tìm Mỹ mà đánh”, “tìm ngụy mà diệt”.
Mùa khô 1965 - 1966, đế quốc Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất trên chiến trường miền Nam. Qua nửa năm chiến đấu gian khổ, quyết liệt, quân và dân miền Nam đã đánh bại cuộc phản công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên địch. Tháng 10/1966, đế quốc Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân phát triển cao, lực lượng vũ trang tại chỗ của ta đã trụ bám trận địa, tiến công rộng khắp, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực Quân Giải phóng mở các cuộc tiến công, gây cho địch nhiều thiệt hại về sinh lực và phương tiện chiến tranh, buộc quân Mỹ phải chấm dứt cuộc phản công chiến lược lần thứ hai mùa khô 1966 - 1967.
Sau những thắng lợi quan trọng của cách mạng miền Nam, tháng 1/1968, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 thông qua Nghị quyết của Bộ Chính trị (12/1967), quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Chỉ trong thời gian ngắn, quân và dân ta đã tiến công vào hàng loạt mục tiêu nằm sâu trong các đô thị trên toàn miền Nam, gây cho địch thiệt hại rất nặng nề, làm đảo lộn thế trận chiến lược của đế quốc Mỹ. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, rút dần quân về nước, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.
Từ năm 1969, Mỹ thi hành “Học thuyết Níchxơn” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trong những năm 1969 - 1972, đế quốc Mỹ sử dụng tối đa về sức mạnh quân sự, kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao hòng cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trước tình hình đó, quân và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, giành được những thắng lợi to lớn, tiêu biểu là chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, chiến dịch Đông Bắc Campuchia; đồng thời mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam bằng các chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng ở Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, các chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long, Trung Bộ.
Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai (chiến dịch Linebacker I) với quy mô lớn, ác liệt hơn lần trước. Với tinh thần dũng cảm và cách đánh mưu trí, sáng tạo, qua 7 tháng chiến đấu quyết liệt, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 654 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 125 tàu chiến Mỹ.
Trước những thất bại nặng nề, đêm 18/12/1972, Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất mang tên “Chiến dịch Linebacker II” đánh phá miền Bắc, tập trung ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng. Một lần nữa quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, đánh bại cuộc tập kích chiến lược của địch; bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B-52, 5 chiếc F-111. Bị tổn thất lớn và không đạt mục đích, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại cuộc đàm phán ở Paris. Dư luận thế giới gọi đây là trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam, cùng với Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973), rút quân về nước. Tuy nhiên, chỉ 20 ngày trước sự kiện này, không quân Mỹ đã tiến hành cuộc không kích dữ dội vào sân bay dã chiến Libi, đưa đến một trong những trang sử bi tráng nhất trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Theo một số nhà nghiên cứu, đây chính là đợt không kích cuối cùng của không quân Mỹ trên miền Bắc. Sau thời điểm này, chiến trường thực sự chỉ còn lại trên đất miền Nam, với trận chiến vĩ đại cuối cùng mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Bình An
Ngày 15/7/1950, Đảng Đoàn Thanh vận Trung ương họp mở rộng và giao cho Ban thường vụ Trung ương Đoàn tổ chức thành lập Đội TNXP công tác Trung ương đầu tiên theo chỉ thị của Bác Hồ. Đây là thời điểm có ý nghĩa lịch sử đối với việc ra đời một đội hình thanh niên đặc thù từ ý tưởng lớn của Bác, một sáng tạo độc đáo về trường học thực tiễn rộng lớn đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam từ lứa tuổi Thanh Thiếu niên và ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đội TNXP công tác Trung ương đầu tiên do đồng chí Vương Bích Vượng, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đoàn làm đội trưởng. Lúc đầu toàn Đội có 225 đội viên chia thành 3 Liên phân đội, có tổ chức Đảng và Đoàn thuộc Đảng bộ Tổng cục cung cấp mặt trận trực thuộc Tổng Cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Cuối tháng 8/1950, lễ xuất quân được tổ chức tại Núi Hồng, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
Đầu tháng 9/1950, Đội nhận lệnh đi phục vụ Chiến dịch Biên giới, lực lượng TNXP đã dũng cảm vượt qua lửa đạn, bám sát phục vụ bộ góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Biên giới, mở đầu những trang sử vẻ vang của lực lượng TNXP. Đội TNXP công tác Trung ương được vinh dự Bác Hồ gửi thư khen. Đặc biệt, chỉ sau mấy tháng thành lập và dù bận muôn vàn công việc lãnh đạo kháng chiến, ngày 20/3/1951, trên đường đi chiến dịch Bác Hồ đã dành thời gian đến thăm đơn vị TNXP 312 đang làm nhiệm vụ tại khu rừng Cầu Nà Cù, thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn. Tại đây, Bác đã thăm hỏi, dặn dò và đọc tặng các cháu 4 câu thơ, nhưng thực chất là lời giáo huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương hướng tư tưởng và hành động nhằm rèn luyện nghị lực cho lực lượng TNXP và cho cả thế hệ trẻ Việt Nam đang đứng trước nhiệm vụ hết sức nặng nề của Tổ quốc giao phó:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các đại biểu dự Đại hội TNXP chống Mỹ cứu nước toàn miền Bắc tháng 1/1967
Cuối năm 1953, trong cuộc họp Bộ Chính trị bàn quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ Bác Hồ đã chỉ đạo củng cố, phát triển các Đội TNXP với yêu cầu cao hơn, chất lượng tốt hơn. Bác chỉ rõ: “Kháng chiến càng tiến tới, công việc ngày càng nhiều, chúng ta cần củng cố và phát triển các Đội TNXP để đảm bảo công việc kháng chiến và đào tạo cán bộ sau này”. Bác nhấn mạnh “Đội cốt giáo dục cho thanh niên tinh thần quyết tâm xung phong trong mọi việc. Rèn luyện thành những thanh niên gương mẫu, những chiến sĩ thi đua để trở nên những cán bộ tốt sau này cho Đảng và Chính phủ”. Bác đã giao cho đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác làm Đoàn trưởng, đồng chí Tạ Quang Chiến, cán bộ cận vệ cho Bác làm đội trưởng Đội TNXP kiểu mẫu và Đoàn TNXP mang mật danh Đoàn XP. Cả hai đồng chí Vũ Kỳ, Tạ Quang Chiến đều có vinh dự được Bác Hồ đặt tên (Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi). Trong thời gian này, Bác Hồ đã chăm sóc TNXP từ việc nhỏ đến việc lớn. Hàng tuần Bác nghe báo cáo, những khi vắng Bác giao Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay Bác trực tiếp nghe báo cáo và cho ý kiến chỉ đạo TNXP. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác còn giao cho đồng chí Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Cung cấp tiền phương trực tiếp quan tâm, chỉ đạo TNXP phục vụ chiến dịch. Bác viết nhiều bài đăng báo, động viên biểu dương, khen thưởng những tập thể và cán bộ đội viên lập công xuất sắc, đặc biệt Bác ân cần chỉ bảo phương hướng phấn đấu, rèn luyện, trưởng thành của TNXP.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ và Trung ương Đảng, sự vận động giáo dục của Đoàn Thanh niên Cứu Quốc Việt Nam, chỉ trong một thời gian ngắn hàng vạn thanh niên các tỉnh Khu Ba, Khu Bốn, Tây Bắc, Việt Bắc và các tỉnh Khu Năm, Nam Bộ nô nức lên đường gia nhập TNXP. Tính từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1954, có trên 60.000 lượt thanh niên lên đường gia nhập lực lượng TNXP, trong đó có trên 25.000 TNXP tập trung, được Bác Hồ và Bộ Tư lệnh tiền phương giao đảm nhận hai mảng nhiệm vụ trọng yếu: Một là phục vụ, bảo vệ khu vực các cơ quan đầu não của Trung ương (ATK – an toàn khu ở chiến khu Việt Bắc). Hai là làm xung kích xây dựng các tuyến đường huyết mạch của chiến trường, phá bom nổ chậm, bảo đảm giao thông ở các tọa độ lửa, vận chuyển vũ khí, lương thực, quân trang, quân dụng trực tiếp phục vụ các chiến dịch Biên Giới, Trung Du, Tây Bắc, Thượng Lào… và đặc biệt là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Để phối hợp với Mặt trận Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch bắc Tây Nguyên, Liên khu 5 và Khu Đoàn 5 đã vận động trên 4000 TNXP hỏa tuyến thành lập Tổng đội 204 phục vụ chiến dịch cùng bộ đội lập công đánh thắng Mặt trận Đường 19 – An Khê và giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, đánh bại cuộc càn Át Lăng nằm trong kế hoạch NaVa của Bộ Tổng chỉ huy quân đội Pháp.
Đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có trên 16.000 đội viên TNXP ngày đêm sát vai cùng bộ đội phục vụ chiến đấu và có hơn 8.000 cán bộ, đội viên lập công xuất sắc và trưởng thành nhanh chóng được tuyển chọn bổ sung vào các đơn vị bộ đội ngay tại chiến trường.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 40 đại đội TNXP thuộc Đội 34 và Đội 40 có mặt khắp nơi trên toàn tuyến dài 400km; đường 13 từ bến đò Tạ Khoa, Nghĩa Lộ qua đèo Chẹn đến ngã ba Cò Nòi; đường 41 từ Yên Châu, Mộc Châu qua Cò Nòi lên đèo Pha Đin, Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ. Vị trí các đại đội được bố trí vừa có đóng chốt bảo đảm phục vụ trọng điểm, vừa có lực lượng cơ động ứng cứu, chi viện cho trọng điểm khi bị địch đánh bom. Một số đơn vị rải quân làm nhiệm vụ cảnh giới bảo vệ đường dây, đi huấn luyện, hướng dẫn và trực tiếp phá bom nổ chậm, bom bươm bướm … Trên 60 loại công việc khác nhau, có những việc tưởng nhỏ như ngụy trang, đêm đêm hàng trăm xe tải đưa hàng vào “vùng cấm”, đường mòn, cỏ chết, cây ngụy trang ngả nghiêng khô héo, ban ngày TNXP phải làm cho cây cỏ tươi lại che khuất đường mòn, đi xa chặt cây về ngụy trang lại giống như rừng nguyên sinh, làm nhiệm vụ xây dựng kho tàng, lán trại, đào công sự, hầm pháo …
Việc bảo đảm giao thông, mạch máu của chiến dịch phải được thông suốt có ý nghĩa góp phần quyết định thắng lợi của chiến dịch nên lực lượng TNXP đảm nhận nhiệm vụ quan trọng này và sự hy sinh xương máu nhiều nhất cũng trên mặt trận giao thông vận tải chiến dịch. Tại Ngã ba Cò Nòi, giao điểm đường 13 gặp đường 41 đi lên Sơn La, có đợt địch đánh phá liên tục 2,3 tuần liền, có trận địch dùng 65 máy bay ném 300 quả bom phá. Tại đèo Pha Đin có ngày địch thả 160 quả bom phá, bom Na Pan kèm theo bom bươm bướm vỏ xanh để ta không thể phát hiện. Vượt qua nguy hiểm, các chiến sĩ TNXP ngày đêm bám trụ, quan sát cắm cọc tiêu trên nhưng quả bom chưa nổ để tổ phá bom vào phá. Có trận quân ta đang phá bom thì địch đến đánh tiếp nên nhiều TNXP đã hy sinh. Riêng tại Ngã ba Cò Nòi và đèo Pha Đin có gần 300 TNXP đã anh dũng hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ.
Trong cuộc chiến với quân thù trên trận tuyến giao thông vận tải các đồng chí Nguyễn Tiến Thụ, Cao Xuân Thọ, Trần Văn Cam ở đội phá bom đã dũng cảm và sáng tạo tìm ra cách phá bom bươm bướm vừa đạt hiệu quả cao, vừa giảm thương vong cho đồng đội, 3 đồng chí đều được thưởng Huân chương. Đồng chí Trịnh Văn Huyền dũng cảm xông lên cứu thoát 5 xe đạn trong khi địch đang bắn phá cũng được thưởng Huân chương và Trung ương Đoàn cử đi dự liên hoan Thanh niên, sinh viên tại Vacsava. Năm 2014 Chủ tịch nước đã ký Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho các đồng chí: Nguyễn Tiến Thụ, Cao Xuân Thọ, Trịnh Văn Huyền; truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho đồng chí Trần Văn Cam.
Vai trò và chiến công của lực lượng TNXP trong kháng chiến chống Pháp mà đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã được Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Việc đảm bảo giao thông vận tải, cung cấp đạn dược, lương thực cho Điện Biên Phủ là một nhân tố vô cùng quan trọng không kém tình hình chiến đấu từng ngày, từng giờ. Vì vậy, nên kẻ địch không thể tưởng tượng chúng ta có thể khắc phục được những khó khăn ấy. Bọn đế quốc và phản động đã không đánh giá được sức mạnh của nhân dân. Trong kháng chiến nhất là trong các chiến dịch, nếu không có thanh niên xung phong thì bộ đội sẽ gặp khó khăn. Thanh niên xung phong đã thật sự đem tinh thần xung phong của thanh niên, xung phong trên chiến trường Điện Biên Phủ, cùng quân đội, dân công, đồng bào Tây Bắc góp phần cống hiến xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Tôi luôn coi thanh niên xung phong như bộ đội”.
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta và đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới. Hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương được ký kết. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, một bộ phận lực lượng TNXP cùng quân đội tiến về tiếp quản Thủ đô và các thành phố lớn, tiếp đó lao vào nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng các khu công nghiệp ban đầu của hậu phương lớn miền Bắc, chuẩn bị chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Trong nhiệm vụ mới này, không kém phần cam go, gian khổ nhưng với tinh thần “Thanh niên xung phong” tuyệt đại bộ phận cán bộ, đội viên đã lập công xuất sắc và trưởng thành nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực. Hầu hết các công trình giao thông, các tuyến đường sắt mới khôi phục, các nhà máy, xí nghiệp, các khu công nghiệp mới xây dựng, các nông trường, lâm trường, công trình thủy lợi ra đời trong thời gian này đều có mồ hôi, công sức, trí tuệ, và cả xương máu, ghi đậm dấu ấn lịch sử TNXP.
Trong không khí vui mừng, phấn khởi sau chiến thắng, đại bộ phận bộ đội hành quân về xuôi nhận nhiệm vụ mới thì 8000 trong tổng số hơn 16.000 cán bộ, đội viên TNXP vừa hoàn thành nhiệm vụ phục vụ chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ lại nhận được lệnh hành quân ngược lên biên giới Việt – Trung mở một con đường chiến lược đặc biệt để tiếp nhận vũ khí, lương thực, thuốc men của Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội Chủ nghĩa chuẩn bị đối phó với âm mưu của đế quốc Mỹ phá hoại hiệp nghị Giơnever và trực tiếp nhảy vào xâm lược Đông Dương.
Việc mở con đường quốc phòng chiến lược dài gần 100km nối liền Lai Châu đến Ma Lù Thàng biên giới Trung Quốc vào thời điểm này phải bí mật, khẩn trương làm cả ban đêm. Hơn 3 năm làm đường, TNXP phải trải qua muôn vàn giao lao, nguy hiểm. Khí hậu khắc nghiệt, ngày nắng nóng đêm giá buốt thấu xương, nạn ruồi vàng, bọ chét cắn đốt sinh ghẻ lở, ốm đau, sốt rét rừng, bệnh phù thũng vì thiếu ăn, thiếu thuốc, bị tai nạn lao động cộng với nạn thổ phỉ phục kích, tập kích, bắn lén nên hơn 100 TNXP đã hy sinh, được đơn vị an táng tại Nghĩa trang Chăn Nưa – Lai Châu. Ngày nay nghĩa trang này đã được xây dựng thành Nghĩa trang liệt sỹ TNXP.
Năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào trực tiếp xâm lược miền Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc. Một lần nữa Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ chủ trương tổ chức lực lượng TNXP. Ngày 21/6/1965, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 71, quyết định tổ chức Lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước. Chỉ thị nêu rõ: “Trước những thất bại liên tiếp trong cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đang tăng cường và mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, trước hết là phá hoại các đường giao thông, các doanh trại quân đội, các khu vực kinh tế nhằm gây cho ta những khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng. Trong tình hình đó, việc bảo đảm công tác giao thông vận tải không bị gián đoạn là một nhiệm vụ vô cùng trọng yếu đối với các hoạt động sản xuất của các ngành, các địa phương và tăng cường khả năng quốc phòng”.
Để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng của thanh niên trong việc đảm đương các nhiệm vụ khó khăn nhưng vẻ vang đó, Trung ương Đảng và Hội đồng Chính phủ quyết định giao cho Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động tổ chức các Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước. Chỉ sau 20 ngày Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị thành lập TNXP chống Mỹ cứu nước, ngày 12/7/1965, Bác Hồ đã trực tiếp nghe Trung ương Đoàn báo cáo về tình hình tuyển quân. Trong các lời căn dặn quý báu của Bác, Bác nhấn mạnh đến chính sách, nhất là chính sách đối với nữ TNXP và đặc biệt Bác quan tâm đến việc thông qua thực hiện lao động, chiến đấu mà đào tạo, rèn luyện TNXP tiến bộ, trưởng thành.
Ngày 29/7/1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng có chỉ thị số 105 về việc tăng cường lãnh đạo công tác vận động Thanh niên trong tình hình mới có đoạn nói: “Để phát huy truyền thống của TNXP trong thời kỳ kháng chiến và để đáp ứng với nhiệt tình của Thanh niên đang sôi nổi thực hiện phong trào “Ba sẵn sàng” cần tổ chức các Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước nhằm phục vụ cho chiến đấu và xây dựng. Mỗi Đội TNXP phải là một đơn vị sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết đồng thời là một trường học văn hóa, kỹ thuật, nơi đào tạo và rèn luyện Thanh niên về mọi mặt”. Ngày 15/11/1965, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam ra Chỉ thị số 86 về việc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ huấn luyện quân sự và trang bị vũ khí thích hợp với yêu cầu nhiệm vụ trị an, tác chiến của từng vùng cho các đơn vị TNXP. Đồng thời tiến hành đăng ký quản lý quân nhân dự bị, sẵn sàng bổ sung quân cho bộ đội khi có yêu cầu của Bộ Quốc phòng.
Sau khi có chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, sự quan tâm đặc biệt của Bác Hồ và Trung ương Đảng, từ tháng 6/1965 đến tháng 4/1975 trong cao trào “Ba sẵn sàng” do Trung ương Đoàn phát động đã có gần 20 vạn nam nữ thanh niên gia nhập các Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước và có mặt ở hầu hết các chiến trường gian khổ nhất, ác liệt nhất, ngày đêm phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu. Chỉ riêng trên mặt trận giao thông vận tải từ Khu Bốn vào dọc đường Trường Sơn, dưới làn bom đạn và cả chất độc của địch, hàng vạn TNXP không quản ngại gian khổ, hy sinh, ngày đêm đào núi, vượt suối phá đá, xuyên đèo góp phần làm mới hơn 2.000 km đường chiến lược, đảm bảo giao thông thông suốt từ Bắc vào Nam, từ các hậu phương chi viện cho tiền tuyến.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta, đế quốc Mỹ đã dùng hàng chục loại máy bay phản lực kể cả máy bay hiện đại nhất như B52, F111, đánh phá trên 7 vạn lần, ném 2,5 triệu tấn bom các loại, tập trung 80% vào các tuyến giao thông trọng điểm và ở những nơi này đại bộ phận TNXP trấn giữ. Nhiều ngày giặc Mỹ huy động từ 500 đến 1000 lần chiếc máy bay, bắn trên 90 vạn quả đại bác và tên lửa vào đất liền, thả xuống biển, xuống sông hàng vạn quả thủy lôi…Chỉ tính riêng Xuân Mậu Thân 1968, ở trọng điểm Cua chữ A do đơn vị TNXP đảm nhiệm phải chịu 969 lần B52 với trên 10.000 tấn bom các loại. Trên khắp mọi tuyến đường chiến lược thuộc Trung ương và các địa phương quản lý, các cầu phà, bến cảng, các trọng điểm đánh phá ác liệt ngày đêm, lực lượng TNXP cùng bộ đội và công nhân ngành giao thông vận tải đã anh dũng bám đường đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt từ Bắc vào Nam, Lực lượng TNXP còn là đội quân chủ lực mở các tuyến đường chiến lược dọc ngang từ phía Bắc đến phía Nam vĩ tuyến 17 và sang nước bạn Lào, đã xây dựng các kho tàng, bốc xếp, chuyển tải hàng triệu tấn vũ khí, lương thực, quân trang, quân dụng liên tục từ hậu phương miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam. Một số đơn vị TNXP còn trực tiếp tham gia chiến đấu bắn rơi 16 máy bay, bắt sống 13 giặc lái và 16.000 đội viên TNXP được tuyển chọn trực tiếp bổ sung vào quân đội.
Các đội TNXP đã trở thành lực lượng quan trọng trong cuộc chiến tranh nhân dân. Việc tổ chức lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước là một quyết sách độc đáo, sáng tạo góp phần đối phó kịp thời với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược. Hành động anh hùng, lao động chiến đấu dũng cảm, kiên cường sẵn sàng hy sinh vì mạch máu giao thông Tổ quốc như anh hùng Nguyễn Thị Kim Huế trên đường 12A Quảng Bình, Đinh Thị Thu Hiệp trên đèo Đá Đẽo đường 15A (đường Trường Sơn lịch sử), Nguyễn Tri Ân trên đất Hà Tĩnh kiên cường…và hàng vạn nam nữ TNXP khác đã không quản gian lao, nguy hiểm sẵn sàng hy sinh, hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho cách mạng, mãi mãi là những tấm gương sáng chói của lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước. Tiêu biểu như anh hùng liệt sĩ Nguyễn Thị Vân Liệu thuộc Đội TNXP số 25 Anh hùng tham gia chiến dịch “Chọc thủng Trường Sơn mở đường Thắng lợi” làm nên con Đường 20 Quyết Thắng – một con đường lịch sử của thời kỳ chống Mỹ cứu nước như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá “Đường 20 – Quyết Thắng là một kỳ công, kỳ tích, kỳ quan do ý chí vì độc lập tự do của chiến sĩ và Thanh niên xung phong làm nên”.
Trên con đường này, đơn vị Nguyễn Thị Vân Liệu được phân công bám giữ trọng điểm cua chữ A trên đèo Phu La Nhích và Ngầm Ta Lê. Địa hình hiểm trở một bên núi cao, một bên vực thẳm. Nơi kẻ thù coi là yết hầu của mạch máu giao thông từ miền Bắc vào miền Nam. Nơi ấy sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Các loại phương tiện, vũ khí tối tân nhất của đế quốc Mỹ được sử dụng. Máy bay C130, Thần Sấm, Con Ma, B52 thay phiên nhau đánh phá. Có ngày chúng đánh tới trăm lần, ban đêm thả pháo sáng rực cả một vùng, tưởng như không có một vật gì chúng không nhìn thấy. Bom xới đạn cày, đến nỗi núi đồi không còn một cành cây, ngọn cỏ. Mùa khô trở thành núi đỏ, mùa mưa trở thành hồ lầy, không thể đào nổi một hố trú ẩn cá nhân. Mùa khô 1967, 1968, 1969, 1970, Mỹ đã dùng đủ mưu ma chước quỷ đổ vào các trọng điểm không biết bao nhiêu tấn bom đạn, chất độc hóa học, bom lân tinh, bom la de, bom khoan, bom nổ chậm, bom từ trường, bom bi, rốc két, mìn vướng, mìn tai hồng, mìn hẹn giờ, cây nhiệt đới thu tiếng động…để hủy diệt lực lượng của ta.
Thế nhưng những TNXP vẫn kiên cường bám trụ, bám trọng điểm với tinh thần “xe chưa qua, ta chưa nghỉ”. Trời mưa to, đất đá đổ ngổn ngang xuống lòng đường kéo dài hàng cây số, bùn lầy nhão nhoét, trời rét căm căm, các chiến sĩ TNXP phải thức suốt đêm tầm tã trong mưa dầm gió rét để thông đường và dẫn dắt xe qua trọng điểm an toàn. Có thời gian thiếu gạo, thiếu muối, thiếu rau, thiếu thuốc men, thiếu vải mặc, thiếu cả những thứ cần thiết cho chị em nữ, có lúc hàng trăm người bị sốt rét, người sốt nhẹ phục vụ người sốt nặng cáng nhau đi viện, người nằm trên cáng và người cáng đều là bệnh nhân, người nào giảm sốt xuống khiêng, người nào sốt cao lên cáng, cứ thế thay nhau…Đơn vị đa số là nữ, có một số nam giới tham gia tổ xung kích phá bom đợt đầu đã bị hy sinh. Cả đơn vị thề “quyết tử cho Cua chữ A quyết sinh”. Một phong trào tìm mưu, hiến kế để phá bom nổ chậm được phát động. Người đề xuất sáng kiến đầu tiên là Nguyễn Thị Vân Liệu: Dùng bộc phá phá bom, lúc đầu đặt bộc phá cạnh quả bom, tra kíp nổ và đốt, rồi chọn một chỗ thích hợp để nghe. Nếu hai tiếng nổ nối tiếp nhau là đạt kết quả. Đối với những quả bom chui sâu xuống mặt đường thì khéo léo đào một hố sâu ở dưới quả bom theo hình nón, đáy nhỏ, miệng to, rồi nhồi bộc phá theo như hình trên cho xuống hố, tra kíp, mùn đốt. Kết quả khi bộc phá nổ đã hất tung quả bom lên, do đó bom nổ, mặt đường ít bị khoét sâu. Sáng kiến của Nguyễn Thị Vân Liệu và tinh thần dũng cảm quyết thắng của đơn vị phá bom được phổ biến cho toàn binh trạm 14 và toàn tuyến đường áp dụng. Biết tin này Bác Hồ rất vui, tự tay Bác gửi Huy hiệu của Bác tặng thưởng cho Liệu.
Theo số liệu thống kê trong hơn 10 năm (1965 - 1975) lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước đã nòng cốt xây dựng mới 2.165 km đường chiến lược, đường vòng, đường tránh. Trấn giữ 2.526 trọng điểm đánh phá để đảm bảo giao thông thông suốt trên 53 con đường dài trên 3.000 km. Vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực…ra tiền tuyến. Bổ sung 15.772 cán bộ, đội viên cho bộ đội chủ lực và công an vũ trang. 14.888 cán bộ, đội viên trưởng thành trong lao động, chiến đấu được cử đi đào tạo trong nước và nước ngoài trở thành một đội ngũ cán bộ cốt cán trên nhiều lĩnh vực ở các ngành, các cấp từ địa phương đến Trung ương. Đã có 37 cá nhân và 38 tập thể, địa phương, đơn vị được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân.
Ở miền Nam, Đảng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định giao cho Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng miền Nam tổ chức Lực lượng TNXP giải phóng. Trong cao trào Năm xung phong do Đoàn Thanh niên phát động với khẩu hiệu “Nơi đâu chiến trường cần, TNXP có mặt, nơi nào có giặc TNXP xuất quân”, hàng vạn TNXP đêm ngày sát vai cùng quân giải phóng phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu ở hầu hết các chiến trường từ Trị Thiên, Khu Năm, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ và từ những trận đánh Mỹ đầu tiên ở Núi Thành (1965) đến các chiến dịch Tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968), chiến dịch Tây Nguyên (1973) và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cùng với lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước ở miền Bắc, Lực lượng TNXP giải phóng miền Nam được thành lập từ khi đế quốc Mỹ tiến hành “chiến tranh cục bộ”. Hàng chục vạn quân Mỹ và chư hầu ồ ạt kéo vào miền Nam nước ta. Chiến trường chính, nơi đọ sức quyết liệt giữa lực lượng chủ lực hai bên là miền Đông Nam Bộ và Khu 5 – Tây Nguyên. Tại những nơi này, địch gom dân, kèm kẹp gắt gao, thực hiện triệt để chính sách cướp sạch, đốt sạch, giết sạch tàn bạo. Trong bối cảnh đó, vấn đề phục vụ bộ đội chủ lực, chiến đấu trở nên cực kỳ cấp bách. Không thể sử dụng dân công thông thường, chiến trường chính của bộ đội chủ lực đòi hỏi một lực lượng phục vụ thật đặc biệt, rất cơ động, linh hoạt sát vai cùng bộ đội như hình với bóng trong suốt các trận đánh và mỗi chiến dịch.
Ngày 20/4/1965, Đội TNXP giải phóng đầu tiên làm lễ xuất quân với 108 nam nữ cán bộ đội viên nòng cốt rút từ các cơ quan Trung ương Cục. Tiếp theo đó hàng chục ngàn TNXP tuyển từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long đã vượt sông suối, núi rừng, vừa hành quân đánh địch lần lượt tập trung về căn cứ (R). Mười một Đội, mỗi Đội có số quân tương đương một đại đội. Về sau hình thành 3 Liên đội 5, 7, 9 trực tiếp phục vụ 3 Sư đoàn chủ lực 5, 7, 9. Vừa xuất quân lực lượng TNXP đã phục vụ ngay có hiệu quả các trận đánh Mỹ nổi tiếng đầu tiên: Phước Long, Đồng Xoài, Bông Trang, Nhà Đỏ…
Ngay từ buổi đầu TNXP được bộ đội yêu mến, tin cậy. Trước các trận đánh, TNXP đi trước chuẩn bị chiến trường. Trong các trận đánh TNXP sát vai cùng bộ đội chiến đấu và phục vụ chiến đấu, sơ cứu và khiêng cáng thương binh ra tuyến sau. Sau trận đánh TNXP vẫn ở lại thu dọn chiến trường, không để sót thương binh, tử sĩ. Không ít trường hợp bị địch quay lại phản kích cả đơn vị TNXP hy sinh. Còn trên đường về hậu cứ, trong mưa bom lửa đạn, nhiều trường hợp TNXP lấy thân mình che chở cho thương binh, quyết không để chiến binh bị thương lần thứ hai. Anh hùng liệt sĩ Đoàn Thị Liên, người con gái tỉnh Bình Dương, đội Phú Lợi căm thù là một trong nhiều tấm gương tiêu biểu của TNXP đã dũng cảm hy sinh, lấy thân mình che chở cho thương binh. Nhiều trường hợp TNXP còn thay thương binh cầm súng hoặc cướp súng của địch diệt địch, trở thành dũng sĩ diệt Mỹ, bắt sống tù binh Mỹ và chư hầu, phá hỏng xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi trực thăng địch như các anh: Trương Thanh, Trịnh Duy Hoàng, Lê Văn Đức, Trang Bá Phúc, Trịnh Văn Thi, Lê Văn Gieo, Phạm Văn Be, các chị Hoàng Anh, Võ Thị Rậm, Hồ Ánh Tuyết, Phạm Thị Mãnh, Nguyễn Thị Hồng Láng…đã được phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Mười năm phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu, lực lượng TNXP giải phóng đã xây dựng nên truyền thống “Phục vụ quên mình, anh dũng xung phong, lập công xuất sắc”. Chỉ tính riêng Tổng đội TNXP giải phóng miền Nam từ ngày thành lập (20- 4-1965) đến ngày 30-4-1975 đã tham gia phục vụ 16 chiến dịch lớn với 641 trận đánh cấp Trung đoàn trở lên, vận chuyển 20.153 tấn vũ khí, lương thực…ra trận địa, nhận 9.062 thương binh đưa về tuyến sau, trực tiếp chăm sóc, bảo vệ 2077 thương binh, tiếp đón nuôi dưỡng 3.500 cán bộ chiến sĩ được trao trả. Đào 1.535 hầm phẫu thuật, xây dựng 8 bệnh viện dã chiến, 272 kho chứa hàng, mở 284 km đường thồ, 29 km đường ô tô và bắc 21 cây cầu vượt sông suối. Đặc biệt một số đơn vị TNXP đã trực tiếp chiến đấu trên 40 trận từ cấp Trung đội đến cấp Tiểu đoàn. Diệt và bắt sống 1.119 tên địch có 286 tên Mỹ, 7 lính Park Chung Hee, 270 lính Lonnon, bắn cháy, phá hủy 10 xe tăng, M113, 5 máy bay, thu nhiều vũ khí…
Thông qua chiến đấu, rèn luyện Tổng đội chuyển sang Công an vũ trang một tiểu đoàn và chuyển sang Quân đội một đại đội với 600 cán bộ, đội viên. Đồng thời chuyển 242 cán bộ về tăng cường cho các địa phương. Đặc biệt, cùng với Tổng đội TNXP giải phóng miền Nam, còn có các đơn vị được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân như: Đội TNXP Ấp Bắc, Liên đội TNXP Võ Như Hưng (Quảng Đà), Tiểu đội 1, Đại đội 759 Đoàn 559,…
Tại chiến trường khu 5 và Tây Nguyên các Tổng đội TNXP giải phóng mang tên các anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Văn Bé, Võ Như Hưng có 5 tiểu đoàn theo sát các Sư đoàn bộ đội chủ lực phục vụ các trận đánh lớn và 10 tiểu đoàn cùng Bộ đội Đoàn 559 phục vụ tuyến đường Trường Sơn, tiêu biểu có Tiểu đoàn 2 nữ TNXP thuộc Quân khu 5 do Phạm Thị Thao làm Tiểu đoàn trưởng đã kiên cường dũng cảm vượt qua mưa bom bão đạn của quân thù trực tiếp phục vụ bộ đội. Có nhiều nữ cựu TNXP hàng tháng trời trên vai gùi cõng súng đạn với khối lượng nặng gấp đôi cơ thể mình; chiến sĩ Nguyễn Thị Huấn vác cả nòng pháo nặng trên 100 kg. Cả tiểu đoàn và 2 cán bộ là Phạm Thị Thao, Nguyễn Thị Huấn đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Lực lượng TNXP giải phóng miền Nam, nhất là ở Khu 5 không chỉ được tổ chức ở vùng giải phóng, vùng căn cứ kháng chiến mà còn được tổ chức bí mật trong đô thị và vùng địch kiểm soát. Trong thời gian trước, trong và sau tết Mậu Thân 1968, hàng trăm học sinh, sinh viên các đô thị Huế, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang… thuộc khu 5 đã tìm cách hóa trang hợp pháp thoát ly lên căn cứ tham gia TNXP. Rồi từ căn cứ bí mật trở về vùng địch xây dựng cơ sở, thành lập các đội TNXP vũ trang tuyên truyền, diệt ác ôn, vận động thanh niên, học sinh, sinh viên nòng cốt đấu tranh 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh địch vận), đào hầm bí mật, bảo vệ cán bộ, phục vụ bộ đội đặc công, tập kích các đồn, bốt địch, tiêu diệt bọn sĩ quan và cố vấn Mỹ, vận chuyển thương binh ra vùng giáp ranh…
Một trong những nét đặc sắc về phẩm chất cách mạng của lực lượng TNXP nước ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược là nghị lực phi thường và tinh thần lạc quan, yêu đời vững tin vào ngày toàn thắng, bắt nguồn từ 4 câu thơ Bác Hồ dạy: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”. Tỏ rõ phẩm chất của TNXP là sẵn sàng đi đến những nơi khó khăn, nguy hiểm nhất, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì được Đảng và nhân dân giao. Càng trong khó khăn gian khổ, càng thể hiện sáng ngời tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu thương đồng đội, yêu nhân dân, yêu đất nước, tinh thần chiến đấu và ý chí quyết thắng, luôn vững tin vào ngày toàn thắng của cuộc kháng chiến, vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng và vững tin vào sự phấn đấu, tiến bộ, trưởng thành của bản thân trong trường học lớn TNXP. Từ đó “Tiếng hát át tiếng bom” không chỉ là khẩu hiệu động viên mà đã thực sự trở thành phương châm cuộc sống của TNXP. Càng gian khổ, ác liệt, tinh thần lạc quan yêu đời càng được phát huy, càng có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ ý chí sẵn sàng xả thân vì những tuyến đường ra trận, vì những công trình phục vụ chiến đấu và chiến thắng của công cuộc kháng chiến cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Hầu hết các đơn vị TNXP trong khi làm nhiệm vụ kể cả ở những tọa độ lửa vẫn thường xuyên duy trì những buổi học văn hóa, chính trị, quân sự, nghiệp vụ, sinh hoạt văn nghệ. Trong tiếng bom đạn địch rung chuyển mặt đường không át nổi tiếng hát, lời ca của TNXP.
Trái lại tiếng hát của TNXP thật sự đã át cả tiếng bom rền, tiếng gầm rú của máy bay giặc. Càng gian khổ, ác liệt càng tôi rèn thêm ý chí phấn đấu, càng trưởng thành về mọi mặt, vững vàng và lớn lên nhanh chóng trong cuộc sống của lực lượng TNXP, theo tư tưởng “Trường học lớn” của Bác Hồ. Một số thanh niên khi mới tham gia TNXP học lực chỉ mới lớp một, lớp hai thậm chí chưa biết chữ, nhưng chỉ qua vài ba năm vừa tích cực lao động, chiến đấu vừa nỗ lực học tập đã đạt trình độ cấp 1 cấp 2. Để sau này được tiếp tục cử đi học các trường trong nước hoặc nước ngoài, tốt nghiệp đại học, trên đại học, được đào tạo, bồi dưỡng trở thành những cán bộ chủ chốt trên nhiều lĩnh vực ở các ngành các cấp từ địa phương đến trung ương. Trong đó có một số khá đông giữ trọng trách trong cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.
Suốt chặng đường 67 năm tham gia phục vụ kháng chiến, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, truyền thống hào hùng của TNXP Việt Nam không chỉ thể hiện ở tinh thần gan dạ, sẵn sàng xả thân xông lên vượt qua mưa bom bão đạn, lập công xuất sắc trong nhiệm vụ phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu mà còn thể hiện ở tinh thần táo bạo, thông minh, sáng tạo trong lao động, công tác, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng giao, để tạo nên thế đứng vững chắc cho lớp lớp thanh niên xung phong kế tiếp nhau lập nên những kỳ tích, xứng đáng là lực lượng mũi nhọn trên các trận tuyến khó khăn, ác liệt suốt hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc. Truyền thống hào hùng của TNXP còn góp phần tạo nên một phẩm chất cách mạng vẻ vang cho Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và cả thế hệ trẻ Việt Nam, đó là phẩm chất như Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định “Tôi luôn coi TNXP như Bộ đội, vì trong phẩm chất của TNXP có phẩm chất của Bộ đội Cụ Hồ”. Và đây là phẩm chất đặc sắc bắt nguồn từ tư tưởng lớn của Bác Hồ về TNXP, coi TNXP là một trường học lớn của cách mạng nhằm giáo dục giác ngộ cả thế hệ trẻ vừa đào tạo rèn luyện đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên phục vụ kháng chiến thắng lợi và phục vụ công cuộc kiến thiết, xây dựng, phát triển đất nước thành công.
Truyền thống hào hùng của lực lượng TNXP Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi công trạng bằng quyết định của Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, và tặng thường Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng nhất cho toàn lực lượng. Nhà nước cũng tuyên dương danh hiệu Anh hùng cho lực lượng TNXP cho 38 tập thể, từ tiểu đội, đại đội, đội, tổng đội và lực lượng TNXP một số tỉnh, thành phố.
Đặc biệt còn hàng nghìn anh hùng, liệt sĩ không tên ở khắp các chiến trường Nam – Trung – Bắc mà vong linh các anh các chị hội tụ về: các tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ; Đài tưởng niệm liệt sĩ TNXP Ngã ba Cò Nòi – Sơn La,; Nhà bia tưởng niệm khắc danh 60 liệt sỹ TNXP đại đội 915 và các liệt sỹ khác ở Gia Sàng, Thái Nguyên; Đài tưởng niệm các liệt sỹ TNXP ở Truông Bồn, Nghệ An; Đài tưởng niệm TNXP Ngã ba Đồng Lộc cùng với nhà truyền thống TNXP toàn quốc, nhà bia tưởng niệm TNXP khắc danh 1950 liệt sỹ TNXP toàn quốc ở ngã 3 Đồng Lộc – Hà Tĩnh; Đài tưởng niệm TNXP đường 20 Quyết Thắng, bến phà Long Đại – Quảng Bình; Đài tưởng niệm TNXP Giải phóng miền Nam tại đồi 82 huyện Tân Biên -Tây Ninh…
Công lao to lớn và sự hy sinh oanh liệt của các anh hùng liệt sĩ TNXP cùng với truyền thống hào hùng của Lực lượng TNXP Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến, cứu nước đã, đang và mãi mãi là hành trang tinh thần của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và thế hệ trẻ Việt Nam trên con đường đi tới tương lai, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh.
Những đóng góp của lực lượng TNXP Hà Nam
Trong quá trình tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cũng như tham gia các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước, cùng với quân đội, nhân dân, lực lượng thanh niên xung phong (TNXP) Việt Nam, lực lượng TNXP Hà Nam đã có những đóng góp, hy sinh to lớn, được Đảng, Nhà nước ghi nhận, tôn vinh. Trong danh sách các anh hùng liệt sỹ đang được thờ cúng tại Đền thờ AHLS ở lòng hồ Kẻ Gỗ, có nhiều người quê ở Hà Nam.
Hà Nam có 17 nghìn đội viên TNXP thuộc nhiều thế hệ. Trong kháng chiến chống Pháp, ngay từ những ngày đầu Chiến dịch Biên giới 1950, Hà Nam đã có một số đội viên tham gia đơn vị TNXP đầu tiên, được Bác Hồ đến thăm và tặng 4 câu thơ lịch sử ở Nà Cù, Bắc Cạn: “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên”. Thu đông 1953-1954, chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, hơn 2 nghìn đội viên TNXP Hà Nam cùng TNXP các tỉnh và nhân dân Tây Bắc mở hơn 500 cây số đường vượt đèo cao, vực sâu, qua các “tọa độ lửa”: đèo Pha Đin, ngã ba Cò Nòi lên Điện Biên, vận tải lương thực, vũ khí, kéo pháo, đào hào, tải thương… góp phần vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. 27 đội viên TNXP Hà Nam cùng hàng nghìn bộ đội hy sinh tại ngã ba Cò Nòi, trên dọc đường vận tải và chiến trường Điện Biên.
Thời kỳ hòa bình lập lại, từ 1955 đến 1964, hàng nghìn đội viên TNXP Hà Nam có mặt trên các công trường hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hà Nam có 15 đội TNXP (quân số từ 400 đến 3.200 đội viên/đội) cùng TNXP các tỉnh miền Bắc ngày đêm lao động, chiến đấu quên mình trên khắp chiến trường miền Trung, nước bạn Lào, Cam-pu-chia, trực tiếp khai mở, bảo đảm giao thông các tuyến đường chiến lược và có mặt ở hầu hết những trọng điểm địch đánh phá ác liệt (phà Linh Cảm, ngã ba Đồng Lộc, trọng điểm ATP trên Đường 20 Quyết thắng, phà Xuân Sơn, phà Long Đại...); đưa dẫn cán bộ, bộ đội vào chiến trường; vận chuyển hàng hóa, tải thương; đưa dẫn thương binh và hàng nghìn thiếu niên K8 Bình Trị Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định... ra Bắc an toàn.
Trên mọi nẻo đường lao động, chiến đấu, các đơn vị TNXP Hà Nam đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được trao tặng những phần thưởng cao quý. Đội N25 (1.000 đội viên) - đơn vị TNXP đầu tiên và duy nhất cả nước trong lực lượng TNXP chống Mỹ được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) (năm 1972) khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đang diễn ra ác liệt nhất. Tổng đội 572 (5.000 đội viên, trong đó Hà Nam có 1.600 đội viên) được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (năm 1985). Đại đội 5 (300 đội viên) được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND (năm 2009); 3 cá nhân được phong, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Anh hùng LLVTND, hàng nghìn cá nhân được trao tặng phần thưởng cao quý.
Với đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh, “Cung đường nào, địa điểm nào cũng là những mảnh đất thiêng rực lửa, đơn vị nào cũng là những tập thể anh hùng”(*) và một trong số những con đường đó là Đường 20 Quyết thắng do lực lượng TNXP Hà Nam tham gia đảm nhiệm mở tuyến và bảo vệ, sửa chữa bảo đảm thông suốt trong mọi tình huống. Không thể nói hết mức độ đánh phá tàn khốc của bom đạn kẻ thù và những tấm gương anh dũng kiên cường của TNXP Hà Nam tại trọng điểm ác liệt này. Là những con người bình thường, nhưng những đội viên TNXP Hà Nam đã có nhiều hành động anh hùng, lao động sáng tạo, không sợ gian khổ, hy sinh, xả thân tháo gỡ bom chờ nổ, san lấp hố bom. Nhiều người đã hy sinh, nhiều người may mắn hơn được hưởng thời khắc toàn thắng của dân tộc và chỉ rất ít trong số họ đại diện cho hàng nghìn đồng đội được hưởng niềm vui đón nhận phần thưởng cao quý Anh hùng LLVTND của lực lượng TNXP Hà Nam.
Trên mọi nẻo đường lao động, chiến đấu, các đơn vị TNXP Hà Nam đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được trao tặng những phần thưởng cao quý. Đội N25 (1.000 đội viên) - đơn vị TNXP đầu tiên và duy nhất cả nước trong lực lượng TNXP chống Mỹ được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) (năm 1972) khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đang diễn ra ác liệt nhất. Tổng đội 572 (5.000 đội viên, trong đó Hà Nam có 1.600 đội viên) được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (năm 1985). Đại đội 5 (300 đội viên) được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND (năm 2009); 3 cá nhân được phong, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Anh hùng LLVTND, hàng nghìn cá nhân được trao tặng phần thưởng cao quý.
Để góp phần hoàn thành nhiệm vụ mở đường và giữ cho tuyến đường 20 Quyết thắng thông suốt, Đội TNXP N25 Hà Nam cùng với các đơn vị quân đội, công nhân, TNXP đã chiến đấu ngoan cường, chấp nhận vô vàn gian khổ, hy sinh. Tụ điểm ác liệt nhất trên Đường 20 Quyết thắng là trọng điểm ATP (Cua chữ A - Ngầm Ta Lê - Đèo Phu La Nhic) luôn hứng chịu mức độ đánh phá của bom đạn kẻ thù với cường độ mạnh nhất, mật độ dày đặc, khép kín cả về không gian, thời gian: Mùa khô 1966, với 95 ngày đêm máy bay B52 Mỹ rải thảm bom; mùa khô 1967 liên tục 105 ngày đêm; mùa khô 1968 ròng rã 150 ngày đêm máy bay B52 Mỹ rải thảm bom đạn và chất độc hóa học hủy diệt môi trường. Sự cống hiến, hy sinh của những đội viên C5, Đội N25 TNXP Hà Nam trên Đường 20 Quyết thắng là dấu ấn lịch sử điển hình của TNXP Việt Nam. Trên Đường 20 Quyết thắng, Đội N25 có 125 đội viên, C5 có 78 đội viên anh dũng hy sinh, 62 đội viên bị thương; C5 và Đội N25 lực lượng TNXP Hà Nam được Bác Hồ, Bác Tôn gửi tặng lẵng hoa khen tặng (năm 1968), được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba (năm 1969), 25 tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân chương Chiến công. N25 là đội TNXP duy nhất được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND năm 1972, giữa những ngày tháng chiến tranh đang diễn ra ác liệt.
Do nhận nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu ở những trọng điểm ác liệt nên lực lượng TNXP Hà Nam là đơn vị có tỷ lệ thương vong rất lớn. Những nơi in đậm dấu ấn hy sinh của lực lượng TNXP Hà Nam có thể kể đến: 7 đội viên TNXP C354 (Đội N27 Duy Tiên) hy sinh ngày 9/2/1966 tại Hương Phúc, Hương Khê, Hà Tĩnh; 12 đội viên TNXP C361 (Đội N27 Lý Nhân) hy sinh ngày 17/2/1966 tại cầu Đò Vàng tuyến đường sắt Bắc - Nam qua sông Gianh; 28 đội viên TNXP C24 Duy Tiên (trong số 36 TNXP hy sinh tại mỏ đá Hoàng Mai, Quỳnh Thiện, Quỳnh Lưu, Nghệ An ngày 28/4/1966); 17 đội viên TNXP C357 (N35 Bình Lục) hy sinh tại ngã ba Thình Thình (nơi đã từng có 46 TNXP Đội N35 Hà Nam hy sinh trên đoạn đường 40 cây số trong lòng hồ Kẻ Gỗ, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh); 78 đội viên TNXP C5 (trong tổng số 124 TNXP đội N25 Hà Nam hy sinh tại tập đoàn trọng điểm ATP trên Đường 20 Quyết thắng. Tại Khe Bang, km số 7 đường 16, Lệ Thủy, Quảng Bình có 81 TNXP C209 (Đội Trần Quốc Toản Nam Hà) hy sinh ngày 1/5/1970 (trong đó có 32 TNXP Hà Nam)…
Đầu năm 1979, khi xảy ra cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền biên giới phía Bắc, Hà Nam đã có hơn 1.200 đội viên TNXP được biên chế thành 6 đại đội làm nhiệm vụ ở 6 huyện biên giới tỉnh Hoàng Liên Sơn (tỉnh hợp nhất Lào Cai - Yên Bái) đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trong đó 22 đội viên hy sinh. Trải qua các cuộc chiến tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng TNXP Hà Nam có hơn 400 liệt sỹ, 200 đội viên bổ sung chiến đấu, hy sinh bên quân đội; gần 300 nữ đội viên lỡ tuổi, sống đơn thân. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, hiện nay gần 2.000 người được hưởng chế độ thương binh, bệnh binh, chất độc da cam, trợ cấp một lần. Hầu hết cựu TNXP được cấp thẻ bảo hiểm y tế; gia đình có cựu TNXP qua đời (từ 11/2005 đến nay) được hưởng chế độ mai táng phí. Hầu hết số TNXP hoàn thành nhiệm vụ qua đời, thân nhân được hưởng trợ cấp một lần. Nhiều năm qua, các cấp hội cựu TNXP Hà Nam đã vận động và nhận được sự ủng hộ giúp đỡ, sửa chữa, xây mới hàng trăm ngôi nhà tình nghĩa; tặng quà, sổ tiết kiệm cho hàng nghìn lượt đối tượng cựu TNXP hoàn cảnh khó khăn. Các hội cơ sở cùng chính quyền, gia đình đã chuyển hàng chục phần mộ liệt sỹ đội viên TNXP về nghĩa trang địa phương.
Những đóng góp của lực lượng TNXP Hà Tĩnh
Tại Hà Tĩnh, năm 1951, các đơn vị TNXP chống Pháp đầu tiên ra đời. Đến tháng 3/1954, đã có 1.749 người tham gia TNXP. Để phục vụ chiến trường Điện Biên Phủ, họ đã vượt qua bao núi cao, vực thẳm, mưa ngàn, thác lũ, sên vắt, muỗi rừng, đói cơm, thiếu áo, dưới làn bom đạn địch với khát khao cống hiến nhiều nhất cho Tổ quốc.
Trong kháng chiến chống Mỹ, đế quốc Mỹ đã dùng không quân đánh phá vô cùng ác liệt các tuyến đường huyết mạch. Tháng 6/1965, tỉnh ta đã thành lập 2 đội Nam Hà và Bắc Hà gồm 20 đại đội để chi viện cho Bình - Trị - Thiên và đường 9 Nam Lào. Ngoài ra, còn có 2 đội N23 và N25 gồm TNXP Hà Tĩnh và các tỉnh làm nhiệm vụ trên đường mòn Hồ Chí Minh và mở đường 20 Quyết Thắng. Đến tháng 7/1965, tỉnh ta tiếp tục thành lập 2 tổng đội (đội) mỗi tổng đội gồm 10 đại đội. Ban đầu lấy tên là 26/3/K15 và 31/3/K31, sau đó đổi thành N53 - P18 và N55 - P18. Đây là hai đơn vị chủ công giàu truyền thống nhất của TNXP Hà Tĩnh.
Đội N55 - P18 chủ yếu làm nhiệm vụ trên tuyến đường 1A suốt từ Bến Thủy đến Đèo Ngang. Đến ngày 20/4/1968, khi đoạn đường Thượng Gia - Cổ Ngựa bị đánh sập, cắt đứt hoàn toàn việc vận chuyển trên tuyến quốc lộ 1A thì toàn bộ lực lượng TNXP N55 được điều về tuyến đường 15A, từ Lạc Thiện qua cầu Bạng - Tùng Cóc - cầu Tối - Ngã ba Đồng Lộc - Khe Giao - Địa Lợi - Lộc Yên - La Khê - Tân Đức tiếp giáp Quảng Bình. Tại chiến trường Ngã ba Đồng Lộc, nơi được mệnh danh là “chảo lửa túi bom”, TNXP N55 đã bám trụ suốt ngày đêm, chấp nhận gian khổ, hy sinh, tiêu biểu là 2 liệt sỹ Lê Đăng Dương và Võ Xuân Tài anh dũng hy sinh trong khi rà phá quả bom thứ 10 vào ngày 4/7/1968 tại cầu Tối, 10 cô gái A4 - C552 - N55 hy sinh vào chiều 24/7/1968, Bí thư Chi bộ Võ Triều Chung hy sinh vào chiều 24/8/1968, 23 cán bộ, chiến sỹ C555 hy sinh tại đồi Con Công, xã Phú Lộc vào ngày 13/11/1972. Cùng với các lực lượng khác, họ đã làm nên một Ngã ba Đồng Lộc huyền thoại, tô thắm chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Đội N53 - P18 là đơn vị chủ công mở đường 21 từ Khe Giao qua ngã ba Thình Thình dọc theo hữu ngạn sông Ngàn Sâu vào Tân Ấp, Quảng Bình với chiều dài 53km và đến cuối năm 1966, tiếp tục mở đường 22 bắt đầu từ ngã ba Thình Thình men theo phía Tây sông Rào Cái vào Cẩm Mỹ - qua khe Libi vào Kỳ Thượng - Kỳ Lạc đến Quảng Bình với chiều dài 29 km, vượt qua hơn 10 con khe sâu. Đây là tuyến đường mà địch đã đánh phá rất ác liệt, trong đó có trận đánh vào hồi 7h ngày 18/9/1972 trên toàn tuyến đường 21, phá hủy 54 xe ô tô chở hàng ra mặt trận, làm 11 nam nữ TNXP N53 hy sinh. Đến nay, có 4 người C538 của N53 vẫn chưa tìm được thi thể và trận đánh ngày 7/1/1973 vào sân bay Libi trên tuyến đường 22 làm nhiều người hy sinh, trong đó có TNXP N35 (Hà Nam Ninh).
Đến năm 1971, Đội TNXP N40 - P18 gồm 8 đại đội được thành lập, vừa làm công sự bảo vệ các cơ quan đầu não, vừa làm nhiệm vụ bảo vệ các công trình kinh tế. Cũng trong thời gian này, vào tháng 10/1972, tỉnh ta thành lập tiếp Đội TNXP N299 - P18 gồm 8 đại đội để làm nhiệm vụ bốc dỡ, vận chuyển, giải phóng hàng hóa đảm bảo giao thông tại các cảng biển, cảng sông, các bến tàu... Ngoài ra, còn có 3 đại đội TNXP Hà Tĩnh vào làm nhiệm vụ tại khu vực Vĩnh Linh giáp ranh vĩ tuyến 17.
Trong 10 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Tĩnh có 14.970 nam nữ TNXP biên chế vào 7 đội là N23, N25, N53, N55, N40, N299 và N2 (TNXP tháng 8 Thủ đô) gồm 59 đại đội, trong đó có 3 đại đội độc lập đã hoạt động trên các tuyến đường, các tọa độ lửa suốt từ Hà Tĩnh vào Quảng Trị - Thừa Thiên Huế - đường 9 Nam Lào. Bước chân họ đã trải dài khắp các nẻo đường đất nước, bàn tay xẻ đá, phá bom, san đường, vận tải hàng hóa, dẫn đường xe qua... Mồ hôi và máu của họ thấm vào từng thớ đất quê hương, tuổi xuân gửi lại trên các cánh rừng, cung đường. Kết thúc chiến tranh, 382 người đã hy sinh, trong đó 283 người được công nhận liệt sỹ, 4.505 người là thương binh, 4 tập thể, 3 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng.
BBT
Trang 4 / 7