Anh hãy về Hà Tĩnh quê em/Để ngắm sương giăng trên hồ Kẻ Gỗ/Đêm trăng thanh say câu hò điệu ví/Vọng câu Kiều giữa sóng nước mênh mang...
Theo câu hát tìm về Kẻ Gỗ, tôi thấy mặt hồ mênh mang, thăm thẳm. Mùa xuân nắng trải, nền trời xanh biếc không chút gợn mây. Cảnh sắc thiên nhiên đổ bóng xuống mặt hồ càng thêm huyền ảo, lung linh.Trong khung cảnh đầy chất thơ nhạc ấy, tôi cảm nhận con nước như dòng sữa mát lành từ lòng hồ theo các con kênh tít tắp chảy về tắm mát những ruộng lúa đương thì con gái.
Có thể nói, hồ Kẻ Gỗ là biểu tượng về ý chí vượt lên khó khăn, gian khổ và tinh thần tự lực, tự cường của người dân Nghệ Tĩnh (nay là Hà Tĩnh). Công trình không chỉ là bước đột phá thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh, mà còn góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn vốn nghèo đói, xác xơ bởi chiến tranh và sự khắc nghiệt của thiên tai. Hồ Kẻ Gỗ có dung tích 345 triệu m3 nước, thuộc địa bàn xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, cách TP Hà Tĩnh 20 km về phía Tây Nam. Công trình này không chỉ có nhiệm vụ giảm lũ cho vùng hạ du vào mùa mưa, mà còn phục vụ tưới tiêu cho vùng sản xuất rộng lớn với 19.500 ha lúa của 3 địa phương: Cẩm Xuyên, TP Hà Tĩnh và Thạch Hà.
Để xây dựng được công trình đại thủy nông tầm cỡ như vậy, phải có hàng vạn công nhân, thanh niên xung phong, dân công, bộ đội, dân quân...tiên phong vào chiếm lĩnh “trận địa” là những rừng cây, ngọn đồi, khe suối. Họ lao động miệt mài, hăng say suốt ngày đêm, nếm mật nằm gai, đối mặt gian nan thử thách với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ căng tràn sức sống. Họ làm việc cật lực ba ca mỗi ngày trong điều kiện số lượng máy móc khan hiếm. Họ làm việc bằng nhưng đôi bàn tay chai sạn, rộp phồng bỏng rát.
Ngày ấy, các lực lượng thi công sinh hoạt trong điều kiện thiếu thốn trăm bề. Cơm độn toàn ngô, khoai không đủ no; áo quần mặc không đủ ấm về mùa đông, phong phanh giữa mùa hè. Ai cũng chung tay gắng sức phấn đấu cho công trình vượt tiến độ đề ra. Ngày ấy trên công trường hừng hực khí thế làm việc của những người đi mở lối. Tổ này đào đất đắp đê; nhóm kia vận hành các cỗ máy xúc, máy ủi; bộ phận khác lại thay nhau đào hố, chôn cọc. Thay vì máy ép, khoan, nhồi như bây giờ, toàn bộ thợ đào giếng của các địa phương lân cận được huy động để đào hố cọc. Gian khổ là thế, vất vả là vậy nhưng không ai nao núng tinh thần, không ai nề hà cực khổ, than phiền khó nhọc hay toan tính thiệt hơn.
Hồ Kẻ Gỗ qua góc nhìn của NSNA Nguyễn Thanh Hải
Thuở ấy, những người phần lớn thuộc thế hệ 5X sinh ra và lớn lên trong chiến tranh. Ngày hòa bình, họ có mặt trên công trường đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ ở độ tuổi đôi mươi, mới rời ghế nhà trường, hoặc vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về với đời thường. Dẫu vẫn biết rằng, đặt chân tới vùng đất Kẻ Gỗ là đối mặt với thử thách và gian khó, nhưng họ vẫn xung phong vào “trận tuyến mới” với tinh thần tự nguyện, đầy tinh thần lạc quan như câu hát: “Đất trời như vẫn vang vang lời trống giục” trong ca khúc “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ” của Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý. Ca khúc để đời ấy đã trở thành sức mạnh tinh thần to lớn, “tiếp sức” cho biết bao chàng trai, cô gái hăng say lao động không kể ngày đêm. Ngày ấy, những ca từ trong trẻo của bài hát “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ” liên tục được phát trên loa truyền thanh và hầu hết người lao động trên đại công trường đều thuộc lòng và hát vang cho vợi bớt bao nỗi nhọc nhằn, gian lao.
Hành hương về hồ Kẻ Gỗ bất cứ người dân và du khách nào cũng đến thăm và kính cẩn dâng hương đền thờ cố Tổng bí thư Lê Duẩn - người có nhiều quyết sách tâm huyết, quan trọng giúp Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Tĩnh từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh, vững bước đi lên dựng xây cuộc sống mới. Công trình nằm trên đỉnh một đảo nhỏ ven bờ, có cây cầu dài 137m từ đất liền ra. Đây là nơi đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn đã từng nghỉ lại trong chuyến thăm hồ Kẻ Gỗ năm xưa. Ngôi đền được hoàn thành vào năm 2014 bằng lối kiến trúc giản dị với những hàng cột lim vững chãi. Từ trên cao nhìn xuống ngôi đền như một đài hoa bát giác giữa sóng nước lung linh, lấp lánh như dát bạc. Lối dẫn lên đền có 57 bậc thang lát những phiến đá màu xám bình dị, được khai thác từ vùng quê Thanh Hóa. Trong đền hướng chính điện có tượng Tổng Bí thư Lê Duẩn ở vị trí trang nghiêm. Đền thờ đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, đây là minh chứng thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của người dân xứ Nghệ trung dũng, kiên cường, mà nhân ái và độ lượng, khoan dung...
Đến thăm hồ Kẻ Gỗ, tôi được người dân nơi đây kể về những câu chuyện xúc động lay động lòng người. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khu vực lòng hồ Kẻ Gỗ là chiến trường ác liệt. Tại khu vực này, quân đội ta đã tiến hành xây dựng sân bay dã chiến Libi và các tuyến đường bí mật nhằm tăng cường khả năng chi viện cho chiến trường miền Nam. Công trình được xây dựng bởi sự đóng góp, hy sinh thầm lặng của đội ngũ thanh niên xung phong (TNXP), cán bộ, chiến sĩ và nhân dân địa phương. Tại vùng đất này, máy bay địch thường xuyên tổ chức các trận tập kích ác liệt, gây cho ta nhiều thương vong. Đau đớn nhất là trận tập kích vào đêm 7/1/1973, đã khiến nhiều chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng, TNXP hy sinh, sân bay dã chiến Libi bị phá hủy hoàn toàn. Sau ngày hòa bình lập lại, hồ Kẻ Gỗ được xây dựng và khánh thành, mặt nước dâng cao che dần dấu tích một thời chiến tranh ác liệt. Nhưng với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và sự tâm huyết của Ban Quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ cùng các tổ chức, đơn vị, các mạnh thường quân, các nhà hảo tâm chung tay, góp sức, ngôi miếu thờ trước đây đã được tôn tạo thành ngôi đền thờ trang nghiêm, thành kính giữa vùng trời nước linh thiêng.
Giờ đây, hồ Kẻ Gỗ không chỉ cung cấp nguồn nước tưới tiêu đồng ruộng, mà còn trở thành địa chỉ hấp dẫn mời gọi du khách trong nước và quốc tế đến nơi này bởi vẻ đẹp duyên dáng, nên thơ. Đến với hồ Kẻ Gỗ, du khách sẽ được bách bộ giữa các triền núi vang rộn tiếng chim ca, được phóng tầm mắt ngắm mặt hồ như chiếc gương khổng lồ soi bóng những rừng cây xanh ngút ngàn tầm mắt. Trên mặt hồ lãng đãng sương giăng là những ốc đảo nhỏ mang nét đẹp huyền bí, phủ kín cây xanh và được tô điểm bởi sắc màu của các loài hoa: mộc lan, quế hương, nghinh xuân và phượng vỹ. Vào mùa con nước cạn, ven những triền đồi đầy ắp cát sỏi óng ánh lộ thiên giống như những bãi biển thu nhỏ. Những ngày hè nắng trải, không khí trong lành, gió từ mặt hồ mát rượi. Từ trên cao nhìn xuống, du khách thỏa thích ngắm trời mây trong xanh in hình lên mặt nước hồ phẳng lặng. Ven mặt hồ, vây quanh hòn đảo nhỏ là các loại cây xanh, hoa lá điểm sắc tạo nên khung cảnh thật thanh bình. Những ngày cuối tuần, du khách có thể lên những chiếc thuyền lướt chầm chậm trên mặt hồ xanh ngắt, tận hưởng cảm giác thư thái giữa khung cảnh đầy chất thơ, nhạc trong lãng đãng sương giăng.
Chính nét đẹp kỳ vỹ của hồ Kẻ Gỗ đã trở thành cảm hứng chủ đạo của các nhà văn, nhà thơ, nhạc sỹ cho ra đời những tác phẩm để đời. Trong số đó phải kể tới nghệ sỹ nhiếp ảnh Nguyễn Thanh Hải – một người con của quê hương Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Bằng cảm xúc, niềm đam mê nghệ thuật và những ngày trải nghiệm của chính mình, Nguyễn Thanh Hải đã có những bức ảnh đẹp về cảnh sắc thiên nhiên vùng hồ Kẻ Gỗ.
Về thăm quê lần này, đứng giữa cánh đồng sau mùa cày ải no nước, đất đai tươi màu hứa hẹn vụ mùa bội thu, tôi mới càng thấy thấm thía câu ông cha ta thường nói: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Nước từ hồ Kẻ Gỗ về sớm, nước về tới đâu, máy cày, máy bừa chạy tới, chạy lui làm đất tới đó. Đây cũng là thời điểm bà con tất tả trên cánh đồng tranh thủ là lại mặt ruộng cho bằng phẳng trước khi gieo giống. Có nguồn nước, bà con nông dân mới chủ động được thời gian để gieo cấy kịp thời vụ.
Đứng trước khung cảnh thanh bình, no ấm của làng quê vào mùa gặt hái, tôi cảm nhận được rằng: Hồ Kẻ Gỗ - công trình đại thủy nông được xây dựng trong vòng 3 năm (1976 - 1979) bằng ý chí, nghị lực và lòng quyết tâm của cả một thế hệ cán bộ, chiến sĩ, TNXP, dân quân, công nhân...không ngại “bạt núi, ngăn sông” để chinh phục thiên nhiên để góp phần đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ròng rã gần 50 năm qua, hồ Kẻ Gỗ như dòng sữa mát lành, tinh khiết nuôi dưỡng những cánh đồng phì nhiêu, những làng mạc trù phú. Những vùng đất một thời khô xạm, cằn cỗi được tưới tắm từ dòng nước mát lành này không chỉ giúp bà con có cơm no, áo mặc, mà còn giúp họ vươn làm giàu bằng chính công sức của mình trên những cánh đồng mẫu lớn với năng suất lúa bình quân 6 - 7 tấn/ha...
Lịch sử vẫn trôi theo chiều biến thiên của thời gian nhưng sẽ không bao giờ lãng quên công ơn của hàng vạn người con đã đổ mồ hôi, trí tuệ và công sức của một thời xẻ núi ngăn sông, chinh phục thiên nhiên làm nên hồ Kẻ Gỗ. Để có được dòng sữa mát lành tưới tiêu cho những cánh đồng xanh bát ngát, đã phải hi sinh rất nhiều. Để thỏa lòng mong ước của hành vạn người dân có nước về với đồng ruộng, nhiều cư dân sinh sống trong vùng lòng hồ chấp nhận hiến đất, dỡ nhà mà không toan tính thiệt hơn. Sự mất mát hi sinh của bao người để có được dòng nước mát lành dệt những mùa màng ấm no như hôm nay...
Phan Tiến Dũng
Vùng hạ du hồ Kẻ Gỗ bao gồm 2 huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà (và sau này có cả thành phố Hà Tĩnh) của tỉnh Hà Tĩnh, với hơn 30 vạn nhân dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và hoa màu. Mà chúng ta biết sản xuất nông nghiệp khâu đầu tiên là nước “Nhất nước, nhì phân, tam cần và tứ giống”. Trước đây khi chưa xây dựng hồ Kẻ Gỗ, việc làm thuỷ lợi dẫn thuỷ nhập điền ở đây hầu như chưa có, mà chủ yếu dựa vào thiên nhiên, “nước trời” là chính. Có thể nói vùng đất này luôn bị “chưa mưa đã lụt, chưa nắng đã hạn”, thiên tai luôn đe dọa cuộc sống thường nhật con người từ thượng nguồn cho đến cửa biển. Đời sống nhân dân vô cùng bấp bênh. Có một câu ca dao trước đây mà nay chúng ta nghe không khỏi chạnh lòng “Dân Kỳ La, Tây tha thuế”, (dân Kỳ La tức dân của huyện Cẩm Xuyên), nói về nhân dân vùng này cuộc sống hết sức khó khăn, đến nỗi chế độ thực dân phong kiến cũng phải tha thuế cho họ. Cho nên việc xây dựng Đại công trình thuỷ nông Kẻ Gỗ đã đáp ứng được nguyện vọng và lòng mong đợi của nhân dân địa phương tỉnh Hà Tĩnh và nhất là nhân dân huyện Cẩm Xuyên.
Theo các tài liệu lưu trữ hiện còn cho biết, năm 1934 nhà cầm quyền thuộc địa Pháp đã tiến hành khảo sát đắp đập ở vùng Kẻ Gỗ. Năm 1943 họ đã làm một số kênh chính và kênh phụ, nhưng sau đó đã bị quân phát xít Nhật cản trở; và cũng do kỹ thuật lúc bấy giờ chưa xử lý được nhiều vấn đề về thuỷ lợi và cũng do tình hình thế chiến thứ 2 bùng nổ lan rộng nên phải dừng lại. Năm 1954, sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh khi bàn về phát triển kinh tế nông nghiệp, thuỷ lợi đã đề cập đến việc xây dựng công trình Kẻ Gỗ. Ngày 15 tháng 6 năm 1957, khi về thăm và làm việc với tỉnh Hà Tĩnh, Bác Hồ kính yêu cũng đã yêu cầu lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh chú ý đến việc làm giao thông thuỷ lợi và phát triển kinh tế nông nghiệp. Cuối năm 1957, Uỷ ban hành chính tỉnh đã tiến hành tập hợp các tài liệu kỹ thuật, lập tổ theo dõi thuỷ văn tại vùng Kẻ Gỗ. Đến tháng 8 năm 1963, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh, vấn đề xây dựng hồ Kẻ Gỗ đã được nêu ra và đề xuất Trung ương cho xây dựng. Tuy nhiên sau đó do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên việc này phải dừng lại, song lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh vẫn triển khai tiếp tục các vấn đề khảo sát đánh giá về kỹ thuật, về điều kiện thổ nhưỡng thuỷ văn, về kết cấu các tầng đất đá… Năm 1967, Bộ Thuỷ lợi đã cử các chuyên gia vào khảo sát lập dự án và đến tháng 12 năm 1974, Chính phủ đã có quyết định phê chuẩn nhiệm vụ thiết kế xây dựng lòng hồ chứa nước Kẻ Gỗ.
Có thể nói việc xây dựng hồ Kẻ Gỗ là mong ước ngàn đời của nhân dân 2 huyện Cẩm Xuyên và Thạch Hà nói riêng và của nhân dân Hà Tĩnh nói chung. Cho nên sau ngày đất nước hòa bình, việc tiếp tục triển khai xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ đã làm cho Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh vô cùng phấn khởi, với khí thế “dời non lấp biển, sắp xếp lại giang sơn”. Nhưng trước đó vào tháng 2/1975, khi nước nhà đang phải tiến hành cuộc chiến tranh chống xâm lược, đất nước đang tập trung mọi nguồn lực chi viện cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975 ở miền Nam, tỉnh Nghệ Tĩnh chưa được sát nhập, công trường xây dựng Kẻ Gỗ đã được thành lập và bắt đầu triển khai một số công việc như thành lập Ban chỉ huy, xây dựng hạ tầng hệ thống giao thông, liên lạc, sản xuất vật liệu xây dựng đá cát sỏi, ưu tiên huy động lực lượng xe, máy móc thiết bị tập trung tại công trình,… Tháng 6/1975, tỉnh Hà Tĩnh đã huy động 2.000 lao động thủ công, cuối năm 1975 có 2.500 lao động thủ công làm kênh mương và đưa xe, máy hoạt động trên khu vực đập đầu mối. Những hoạt động chuẩn bị đó đã thể hiện rõ hơn tinh thần, nguyện vọng của nhân dân và quyết tâm của các cấp, các ngành trong việc xây dựng đại công trình này. Và đến ngày 26/3/1976, công trình được chính thức khởi công, do Bộ Thủy lợi và UBND tỉnh Nghệ Tĩnh phát động cùng xây dựng. Dự kiến công trình thực hiện trong 6 năm, tuy nhiên với quyết tâm cao của Đảng bộ và nhân dân Nghệ Tĩnh đã rút ngắn xuống còn 3 năm và đến ngày 26/3/1979 hoàn thành, thỏa lòng mong ước của lãnh đạo và nhân dân địa phương. Các hạng mục lớn của công trình Kẻ Gỗ có phần đầu mối gồm một đập chính, 10 đập phụ, một công trình xả lũ, một cống lấy nước bằng bê tông cốt thép, một nhà máy thuỷ điện đặt sau cống lấy nước. Phần kênh mương gồm kênh chính, kênh cấp 1, cấp 2, cấp 3, cấp 4 dài 904km và 3.600 công trình trên các kênh.
Việc sát nhập 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh vào ngày 27/12/1975 để trở thành tỉnh Nghệ Tĩnh rộng lớn và dân số đông, tiềm lực hùng mạnh đã huy động được hàng vạn lao động trực tiếp trên công trường. Hàng ngày, trong 3 năm xây dựng có trên 10.200 người trực tiếp lao động công trình. Tỉnh Nghệ Tĩnh đã huy động nhân tài vật lực của tất cả 27 huyện, thị xã và thành phố tham gia với khí thế đưa dòng nước mát tưới cho đồng ruộng đang khao khát chờ mong và với tinh thần “Lều chõng cộng với tấm lòng Cộng sản đi xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội”,“Có một viên gạch, một lao động cũng dành cho xây dựng hồ Kẻ Gỗ”, một khí thế xây dựng hết sức khẩn trương “Tay anh phá đá, tay em đào sỏi”. Có thể nói chưa có công trình nào mà huy động được một khối lượng lớn lao động và máy móc thiết bị để thi công như hồ Kẻ Gỗ. Họ tự túc lương thực thực phẩm, ăn ở lán trại tạm bợ trong một thời gian dài nhưng rất kỷ luật và trật tự. Công trình đã đào đắp được 10.428.000m3 đất đá, xây đúc 62.000m3 bê tông và hàng vạn m3 đá xây lát, cất bốc trên 20.000 mồ mả, di chuyển 1.200 hộ dân về khu định cư mới, cải tạo được 7.000ha ruộng đất canh tác…
Sau khi hoàn thành hồ Kẻ Gỗ có lưu vực rộng 223km2, lòng hồ rộng 2,9km dài 22km, trữ lượng nước 345 triệu m3, nước từ hồ theo các kênh chính dài 250km tưới cho 24.136ha đất canh tác của 3 huyện thị và giúp cho 30 vạn nhân dân xung quanh vùng Kẻ Gỗ, bao gồm các xã của huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà và thị xã Hà Tĩnh ngày ấy thoát cảnh hạn hán, lụt lội. Huyện Cẩm Xuyên đã trở thành vựa lúa của tỉnh nhờ lợi ích của công trình thủy lợi hồ Kẻ Gỗ mang lại, năng suất lúa bình quân tăng lên hàng năm nhờ những dòng nước qua các kênh N1, N2, N3 đưa đến. Đời sống nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt, nhiều xã của huyện Cẩm Xuyên đã có thu nhập 1 tấn/người/năm, một điều tưởng như không thể trước đây. Diện mạo nông thôn đổi thay nhanh chóng. Từ ngày có nước về đồng, cỏ cây xanh tốt, không khí trở nên mát mẻ, lúa trồng được 2-3 vụ, ngô khoai đầy nhà, cuộc sống đói khổ đã bị đẩy lùi hoàn toàn. Người dân không phải lo bữa ăn hàng ngày và ngày càng vươn lên làm giàu trên những dòng nước mát Kẻ Gỗ. Công trình này không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn là một công trình văn hóa. Ở đây một vùng cảnh quan sinh thái phục vụ du lịch đã hình thành, trở thành đề tài của nhiều ca khúc, thơ ca nhạc họa… Trong đó ca khúc “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã trở thành bài ca đi cùng năm tháng. Có thể nói công trình xây dựng hồ Kẻ Gỗ là biểu hiện của tinh thần cách mạng, sáng tạo, lao động cần cù, có tổ chức, kỷ luật và kỹ thuật, của tinh thần làm chủ tập thể, của sức mạnh tổng hợp 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã. Là biểu tượng sinh động của liên minh công nông thời kỳ mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Là bản anh hùng ca của đất nước ta sau ngày đất nước hoà bình thống nhất, đi lên xây dựng cuộc sống mới.
Công trình xây dựng hồ Kẻ Gỗ đã làm thay đổi diện mạo của một vùng quê rộng lớn, góp phần chống lũ quét, chống xói mòn cho vùng hạ du, mang lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân địa phương và là niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Nghệ Tĩnh - Hà Tĩnh. Hồ Kẻ Gỗ cùng với khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ có diện tích 24.801ha (không kể vùng đệm 21.400ha) đã trở thành tài nguyên du lịch hấp dẫn, với các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, du thuyền trên hồ, trải nghiệm cảnh quan thiên nhiên. Đặc biệt khi đến đây, chúng ta sẽ ghé thăm, dâng hương tưởng niệm tại Đền thờ Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, một công trình biểu tượng cho tình cảm thiêng liêng, cao quý về lòng biết ơn của các thế hệ người dân Hà Tĩnh đối với Cố Tổng Bí thư, nghe các câu chuyện kể về quá trình xây dựng công trình Đại thủy nông Kẻ Gỗ, về các sự kiện lịch sử thời chống Mỹ cứu nước, trong đó có chứng tích của đường 22 chiến lược và sân bay dã chiến Libi huyền thoại đang nằm sâu dưới lòng hồ của vùng thượng nguồn.
Trí Sơn - Đức Cường
Thời gian đã trôi qua gần nửa thế kỷ, nhưng những ký ức về quá trình xây dựng hồ Kẻ Gỗ vẫn còn in đậm trong tâm trí của những con người từng góp phần làm nên kỳ tích thuở ấy. Công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ không chỉ là một biểu tượng của sức mạnh đoàn kết, tinh thần lao động kiên trì mà còn là một công trình trọng điểm có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp và đời sống của người dân Hà Tĩnh.
Kỳ tích công trình hồ Kẻ Gỗ
Hồ Kẻ Gỗ chính thức khởi công vào năm 1976 và chỉ sau 3 năm đã hoàn thành, đưa nước về tưới mát cho hàng nghìn ha đất khô cằn, tạo ra bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh. Ông Lê Hồng Sơn, nguyên Giám đốc Công ty Thủy lợi Nam Hà Tĩnh, tự hào chia sẻ rằng công trình này đã làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn, giúp hàng vạn người dân thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Vào những năm trước khi có hồ Kẻ Gỗ, người dân Hà Tĩnh luôn phải chống chọi với thiên tai khắc nghiệt. Vào mùa hè, nắng hạn khiến sông hồ cạn kiệt, đồng ruộng khô khốc, còn vào mùa mưa, lũ lụt kéo dài nhấn chìm cả làng mạc. Trước thực trạng đó, ý tưởng xây dựng hồ Kẻ Gỗ đã được Bác Hồ gợi ý trong chuyến thăm Hà Tĩnh năm 1957. Đến năm 1974, Thủ tướng Phạm Văn Đồng chính thức ký quyết định phê duyệt xây dựng công trình, và chỉ hai năm sau, ngày 26/3/1976, lệnh khởi công đã được phát ra.
Theo tư liệu, quá trình xây dựng hồ thuỷ nông lúc đó trên công trường hồ Kẻ Gỗ là cả một biển người với hơn 6 vạn người gồm dân công, thanh niên xung phong, công nhân các công ty thủy lợi, đơn vị xây dựng, giao thông. Người dân từ 28 huyện, thị trong tỉnh Nghệ Tĩnh như: Quỳnh Lưu, Yên Thành, Diễn Châu đến Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Nghĩa Đàn, Hương Khê đến miền xuôi Nghi Xuân, Nghi Lộc đều đổ về Kẻ Gỗ. Mỗi người mang theo quang gánh trong đó có gạo, củi, đuốc, nước mắm, ruốc, muối để ăn uống trên đường đi. Cứ mười người mang theo một cây cờ, tạo nên một rừng cờ nối đuôi nhau đổ về Kẻ Gỗ.
Bà Nguyễn Thị Hoán (trái) kể lại với các nhà báo về những ngày tháng "phá đá,đào sỏi" xây dựng hồ Kẻ Gỗ
Ở Trung ương cũng huy động các Công ty 3, Công ty 4, Cơ khí Hà Nam Ninh, các bộ phận lắp ghép điện... thành lập nên Ban A bao gồm các kỹ sư đầu ngành của thủy lợi cùng với Trung đoàn 375 của Quân khu IV. Trên đại công trường Kẻ Gỗ có nhiều tiểu công trường với nhiều lực lượng, trong tay là cuốc, xẻng, quang gánh, đèn măng sông... khẩn trương làm việc.
Thời điểm lịch sử đó nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý đã có mặt và đã sáng tác ca khúc “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ” với những ca từ xúc động: “Bởi chúng mình thương bao nhiêu mảnh đất cằn, mà đời không ngại đào mấy con kênh... Tay anh phá đá, tay em đào sỏi, ngồi trong xe ủi anh nhớ những ngày hè, chân lội qua khe em nhớ mùa đông giá”. Bài hát đã trở thành sức mạnh tinh thần to lớn, động viên những đôi bàn tay hăng say lao động không kể ngày đêm.
Với chiến dịch thần tốc và “sức mạnh Nghệ Tĩnh”, công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ đã được hoàn thành vào năm 1978, sớm hơn so với dự kiến 3 năm. Công trình có một đập chính và 3 đập phụ với 17,2km kênh chính; 98,7km kênh cấp 1; hàng ngàn km kênh cấp 2, cấp 3 và 3.168 công trình trên kênh.
Hồi ức về những ngày lao động gian khổ
Nhắc đến công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ là nhắc đến “mối tình” thiết tha của Nhân dân hai tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh. Đã 45 năm trôi qua nhưng người Hà Tĩnh vẫn chưa bao giờ quên những đóng góp của hàng vạn đồng bào từ miền núi Tương Dương, Quế Phong, Tân Kỳ đến miền xuôi Diễn Châu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên… trong đó có cả đồng bào dân tộc thiểu số đã đổ mồ hôi trên công trường Kẻ Gỗ. Có thể nói, ngoài sự hỗ trợ của Trung ương, sự đoàn kết của Nhân dân Nghệ An và Hà Tĩnh sau khi sáp nhập thành tỉnh Nghệ Tĩnh (tháng 1/1976) đã tạo ra sức mạnh làm nên công trình thủy nông lớn nhất đất nước thời bấy giờ.
Trong sự khâm phục và ngưỡng mộ về một công trình đại thủy nông ấy, xuôi dòng Kẻ Gỗ, tôi may mắn khi được gặp lại cựu Bí thư Chi đoàn xóm Mặc Tảo, xã Diễn Lâm (Diễn Châu, Nghệ An) những năm 1975 - 1979. Đó là bà Nguyễn Thị Hoán, hiện sống ở xã Cẩm Bình (Cẩm Xuyên) - một nhân chứng sống về một thời “phá đá, đào sỏi”.
Bà Hoán kể: “Năm 1976, đất nước đã thống nhất, Nghệ An - Hà Tĩnh về chung “một nhà”, người dân chúng tôi thêm phấn khởi và hào hứng. Khi được huy động đi xây hồ Kẻ Gỗ, tâm trạng chúng tôi rất háo hức. Một không khí thi đua sôi nổi diễn ra. Hàng đoàn lực lượng thanh niên nối nhau, rộn ràng vác theo cuốc, xẻng, gánh gạo, mắm muối đi bộ hàng trăm km để vào Cẩm Xuyên đắp đập, xây hồ”.
Trong căn nhà cấp 4 đơn sơ ở làng quê thanh bình, nhấm nháp cốc chè xanh, mắt hướng ra vườn cây trĩu quả như một sự minh chứng cho thành quả từ công trình thuỷ nông đem lại, bà Nguyễn Thị Hoán hào hứng nhớ lại: “Thời điểm chúng tôi nhận nhiệm vụ đi xây hồ Kẻ Gỗ là tháng 6/1975, lúc đó miền Nam vừa được giải phóng, niềm vui hân hoan, rạng rỡ trên khuôn mặt mỗi người. Đơn vị tôi vừa mới thành lập, gồm 600 người, đa số là nữ. Phần lớn là những TNXP vừa rời chiến trường trở về. Thay vì tâm lý nghỉ ngơi, chúng tôi đều cảm thấy phấn chấn, hào hứng trên mặt trận mới, xây dựng và phục hồi đất nước sau chiến tranh”.
“Trước lúc tiến hành xây dựng, hồ Kẻ Gỗ bây giờ là vùng lòng đất rộng mênh mông, đồng hoang, nước mặn, đồi núi nhấp nhô, dân cư thưa thớt và nghèo đói. Để “nên hình, nên dạng” một công trình thủy nông chứa đầy nước ngọt tưới tắm cho hàng vạn ha đất cằn cỗi rộng lớn thành xanh tươi, trù phú vùng Cẩm Xuyên, Thạch Hà và TP. Hà Tĩnh như bây giờ, công việc của những đơn vị tiền trạm khai phá lòng hồ vô cùng vất vả.
Nhiệm vụ lực lượng TNXP lúc bấy giờ là tiến hành cải tạo những mặt bằng nham nhở giữa lòng hồ để làm đường; lập các lán trại cho công nhân cư trú; sản xuất các vật liệu phục vụ cho công việc xây dựng… Bên cạnh khối lượng công việc khổng lồ phải thực hiện hằng ngày, chúng tôi còn phải đối diện với muôn vàn khó khăn như: thiếu thốn lương thực, thường xuyên đối diện với sốt rét, thú rừng hung dữ… Tuy nhiên, bằng tinh thần và nghị lực, tất cả mọi người đều hăng say lao động”.
Cũng nhờ đi xây hồ Kẻ Gỗ, sau này (năm 1979), bà gặp chồng mình là ông Trần Duy Lộ, người Cẩm Bình lúc đó đang là bộ đội đóng quân ở huyện Yên Thành. Chuyện tình của cô thanh niên Nghệ An đi xây hồ Kẻ Gỗ và anh bộ đội xứ Cẩm đã có kết quả viên mãn, khi ông Lộ và bà Hoán có với nhau 4 đứa con, đến nay đều thành đạt.
Bà Ngô Thị Chu (sinh năm 1956, thôn Minh Lạc, xã Cẩm Yên) cũng là một dân công tham gia xây hồ Kẻ Gỗ ngày ấy kể: “Khi đó tôi mới học xong phổ thông, còn chưa lấy chồng thì cũng như nhiều thanh niên khác đi xây Hồ Kẻ Gỗ. Hồi đó không kể hết cái vui vì tham gia chủ yếu là thanh niên trẻ tuổi”.
Bà Chu cho biết, để đào đất đắp đập chính và các tuyến kênh, mọi người dùng đủ các phương tiện. Ấn tượng không thể quên với bà là dân Nghệ An thì dùng gióng ba tao (mỗi bên quang gánh là gióng có 3 dây mũi, phía dưới là rổ, khi đổ đất không cần phải thả gióng xuống mà nghiêng lại để đổ đất nên vận chuyển được nhanh – bà Chu giải thích), dùng cắt kéo để cắt đất sau đó mỗi người vác hòn đất đó lên đắp đập, đất vào mùa hè khô quá thì dùng cuốc chim để mổ. Sau này để chở được nhanh hơn thì dùng xe cút kít. Cứ sáng sớm là mọi người dậy đi làm, tối mịt mới về.
“Đi làm về thì đã có cấp dưỡng nấu cơm. Hồi đó có gạo tấm Triều Tiên ngon và dẻo lắm, rồi cứ mỗi tháng thì có một bữa thịt để bổ sung dinh dưỡng. Ngoài ra mọi người còn rang gạo để nấu canh, khi đó không có muối lạc như bây giờ mà dùng gạo để rang với muối chan cơm để ăn (muối gạo). Chỗ ngủ thì dùng hai cây phi lao đặt song song hai bên, ở trên dùng tre nứa làm sàn rồi trải chiếu để ngủ. Vì hầu hết toàn là thanh niên nên ngày đi làm, tối về là rủ nhau đi chơi, hát hò, đặc biệt là thi hò ví dặm giữa các xã với nhau. Chơi về thì tranh nhau ngủ không thì hết chỗ”, bà Chu nhớ lại…
Gặp lại những con người từng đổ mồ hôi trên công trường năm xưa, ai nấy đều tự hào vì đã góp phần tạo nên một công trình vĩ đại. Mỗi người một câu chuyện, nhưng tất cả đều chung một niềm tự hào khi nhắc về những tháng ngày vất vả mà ý nghĩa ấy. Những nụ cười, những ánh mắt sáng ngời khi kể lại chuyện xưa chính là minh chứng cho một thời thanh xuân sôi nổi, đầy nhiệt huyết.
Chia tay những người đi xây hồ Kẻ Gỗ, tôi ngược dòng thời gian về trên con đường nhựa thẳng tắp, xuyên qua những xóm làng trù phú. Dòng nước mát lành từ hồ vẫn lặng lẽ xuôi về khắp miền quê Hà Tĩnh, như một lời nhắc nhớ về những con người đã cống hiến tuổi trẻ để viết nên trang sử vẻ vang, để hôm nay, đất nước được hưởng thành quả ngọt lành. Tôi chợt nhận ra rằng, những công trình không chỉ được xây dựng bằng mồ hôi, công sức, mà còn bằng cả trái tim, bằng tình yêu quê hương và niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng.
Văn Tuân
Đập chính hồ Kẻ Gỗ
Có thể với bây giờ, Kẻ Gỗ được xem là một địa chỉ du lịch hấp dẫn và những kênh mương đầy ắp nước trải nhánh trên các làng quê xanh tít tắp, trù phú đã trở nên quen thuộc. Nhưng diện mạo Kẻ Gỗ và làng quê trước đó ra sao thì có thể rất nhiều người không được biết. Kẻ Gỗ xưa chỉ là một vùng núi đồi hoang vu, những làng quê Cẩm Xuyên, Thạch Hà khi chưa có kênh mương Kẻ Gỗ chảy qua chỉ là những vùng quê khô khát, cằn cỗi, mùa hạ cây cối cháy xém, xác xơ. Nó ám ảnh cả vào trong những câu ca xưa:“Đất Cẩm Bình cày khô cuống rạ/Đít chạc cày(1) trâu ngã lăn quay”. Nó đi vào thơ ca chân thật, sống động:“Đồng Thạch Hà, Cầm Xuyên cò bay cháy cánh/ Tự bao đời, cát nóng bỏng bàn chân/ Con dẽ, con giun khô dưới lớp đất cằn”(2).
Tôi nhớ năm lên bảy, muốn tập bơi phải rủ bạn đi xuống con hói chảy ra sông Hội cách làng hơn ba cây số. Mùa hè nóng như rang, đêm đem chõng, đem chiếu ra đầu ngõ hóng mát. Nằm đếm sao trời, nghe bà kể chuyện“Tống Trân – Cúc Hoa”, nghe bà ngâm Kiều mà vẫn cảm thấy sự nóng rát của những cơn gió nam cào khô khát thổi qua. Nhiều đêm, những đám cháy đốt than đỏ rịn trên Động Choác mang cả mùi khét cháy, oi nồng phả vào làng.
Thế rồi năm 1976, cả làng tôi náo động. Dân công đắp đê Kẻ Gỗ về đầy xóm như hồi bộ đội về trú quân trong những năm chiến tranh. Họ đến từ đủ mọi miền quê ở miền Bắc, miền Trung và chủ yếu là thanh niên. Làng quê xưa không có điện, đêm yên ắng, ngày cũng lặng lẽ trôi trong cảnh đồng áng xuân thu nhị kỳ. Giờ thì sôi động hẳn. Không khí rộn rã, ồn ã ngoài đồng, trong làng cả ngày lẫn đêm. Nhớ nhất và có lẽ là quý nhất là những đêm trăng sáng, dân công các vùng đi hò, đi hát ví giao duyên trên những cánh đồng còn thơm rơm rạ sau gặt, trên những đoạn đê còn đắp dang dở. Ai đã từng ở quê xưa, khi chưa có điện, khi chưa có âm thanh loa đài, xe cộ ồn ã, mới biết được đêm trăng ở quê nó đẹp và thanh tao đến nhường nào. Đúng như Xuân Diệu từng viết:“Bâng khuâng chân tiếc dẫm lên vàng/ Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang”. Thật quý hiếm vì về sau chẳng bao giờ còn gặp được cảnh này. Ngày nay, dân ca ví, giặm chỉ còn trên sân khấu, chẳng bao giờ còn thấy được trong đời thực như tôi được chứng kiến. Có lẽ thế hệ tôi là may mắn nhất vì đã được thấy, được nghe dân ca ví, giặm trong đời thực như thế nào. Năm 2013, tôi và Giáo sư Bùi Quang Thanh ở Viện Văn hoá Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam đi điền dã lấy tư liệu lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận dân ca ví, giặm là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại, đi hết các vùng miền mà chẳng gặp được một không gian diễn xướng nào trong đời thực. Thế là phải thực hiện bằng dạng thức “tái hiện” cái ngày xưa.
Quay lại chuyện dân công đi hò, đi hát ví giao duyên, nhà tôi có hai dân công người xã Thạch Khê ở trọ. Tôi lúc ấy còn bé tý nhưng cũng hay hóng hớt nên nghe được chuyện các anh phải cử một người xin nghỉ để về quê nhờ một cụ ông cao niên chép cho những câu hò ruột để đi hò. Sau này làm văn hóa tôi mới biết Thạch Khê là cái nôi của hò Nghệ Tĩnh. Riêng làng tôi có anh Nhuật, con một, tuổi cũng nhiều mà chưa lấy được vợ vì gái làng gần như không còn có lứa như anh. Bố anh Nhuật liền lập “chiến dịch” để anh tán cho được một cô dân công. Thế rồi tôi thấy anh mặc áo cô-pơ-lin trắng muốt, đêm đêm đi hò, đi ví với cánh dân công. Để thêm phần tự tin anh còn nhờ thêm một anh trong làng biết làm thơ, thuộc nhiều hò vè đi cùng để “gà” bài. Và kế này quả là vi diệu, nhờ đi hò, đi ví mà anh Nhuật lấy được một cô dân công người Đức Thọ xinh xẻo, đảm đang. Không chỉ anh Nhuật mà còn có khá nhiều những đôi lứa nên duyên trên công trường Kẻ Gỗ nhờ những đêm đi hò, đi ví như vậy. Mỗi thời mỗi khác nhưng so với bây giờ, chuyện tình yêu xưa quả là văn hoá và thơ mộng biết bao. Tuy nhiên không phải đi hò, đi ví rồi ai cũng thành chồng thành vợ. Vậy nên khi các đoàn dân công đắp xong kênh mương phải trở về quê hương, lúc giã bạn, lại có những câu hò mượn của người xưa để thổ lộ lòng mình thật thiết tha, ngậm ngùi, da diết:“Rồi mùa toóc rạ rơm khô/ Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm”.
Những năm tháng lao động trên công trường Kẻ Gỗ, người dân công đã sáng tác ra rất nhiều câu hò, điệu ví, tiếc rằng những năm tháng đó chúng ta đã không có ý thức sưu tầm, lưu trữ, vì thế đã mất đi khá nhiều những “vàng ròng” dân ca xứ Nghệ của giai đoạn này. Những câu hò, điệu ví thời đó được sinh ra trực tiếp từ đời sống lao động sản xuất, đắp đập, xây hồ, làm kênh mương chứ không phải trong các cuộc thi sáng tác, hay theo những đơn đặt hàng như hôm nay. Không gian diễn xướng là không gian thực, đó là công trường, là đồng quê. Dù còn bé tý, chỉ đi hóng các anh chị đi hò, đi hát ví nhưng đến nay tôi vẫn còn nhớ được một câu hò rất nổi tiếng thời đó: “Ngày xưa lều chõng đi thi/ Ngày nay lều chõng ta đi công trường”.
Làng tôi trồng chè, trồng trầu. Chè và trầu là thu nhập cơ bản của mỗi hộ gia đình. Về mùa hè, chè và trầu bán rất chạy nhưng chúng lại cần đủ nước nên mỗi nhà đều phải đào một cái ao trong vườn lấy nước tưới. Để có được một cái ao nhiều nước, các hộ dân thường phải mời một cụ cao niên thông tường thiên văn, địa lý chỉ chỗ đào ao. Tôi còn nhớ cái ao nhà tôi do cố Ứng xem đất, xem mạch rất công phu nhưng rồi cũng phải đào đến hai chỗ mới có nước. Xưa phải tát nước ao bằng gàu dai để tưới chè, tưới trầu. Nước mạch ít nên cứ tát vài tiếng là ao cạn. Lại phải chờ ba, bốn tiếng sau nước mới lên đủ để tát. Thế là nửa đêm dậy tát nước, sáng, trưa, chiều, cứ cách ba bốn tiếng lại tát nước. Khi hồ Kẻ Gỗ hoàn thành, những kênh mương tràn trề tưới mát đồng quê, thôn xóm; nước tràn ao hồ, tha hồ tát nước cho chè, cho trầu. Thậm chí có những vườn chẳng cần phải tát nữa, nước tự chảy vào vườn. Mùa hạ mà cây trái cứ xanh mướt, chả bù cho ngày xưa đến bờ tre, bụi hóp cũng khô cháy với gió Lào. Từ khi có nước Kẻ Gỗ, đêm hè gió thổi vào nhà mang hơi nước mát mẻ, xóm thôn no ấm hẳn, làm đồng đỡ nhọc nhằn mà thu nhập hơn xưa. Mẹ tôi từng thốt lên:“Không có chi sướng bằng có nước Kẻ Gỗ con nạ”. Quả đúng vậy, với một bà nông dân cả đời vất vả với ruộng vườn thì quả là không có gì sướng hơn khi ruộng đồng, vườn tược đang khô khát bỗng dưng có nước.
Nhưng có lẽ vui nhất là những đứa trẻ trâu như chúng tôi. Xưa đi tập bơi phải đi ba cây số, giờ chỉ cần vài ba bước ra con kênh trước làng là tha hồ bơi lội. Thế hệ tôi và những bọn trẻ trâu sau tôi biết bơi là nhờ kênh mương Kẻ Gỗ. Và có lẽ không gì sướng bằng những trưa hè nóng bức chạy ra kênh nhảy tòm xuống kênh quẫy lộn, đùa nghịch với nhau dưới dòng nước mát rượi. Kênh mương Kẻ Gỗ không chỉ mang nước về mà còn mang theo cả tôm, cá. Những ao hồ hai bên kênh và những chân ruộng cá tôm nhiều hẳn lên. Bắt cá không chỉ là thú vui mà còn là “nhiệm vụ” của chúng tôi ở cái thời buổi đói ăn, đói mặc ấy. Trẻ trâu chúng tôi hầu như ngày nào cũng kiếm được một vài xâu cá về cho mẹ. Sau này do dùng kích điện và thuốc trừ sâu quá nhiều nên cá, tôm hết dần. Thật tiếc.
Với tôi, ký ức về Kẻ Gỗ luôn là ký ức đẹp. Nó gắn với tuổi thơ hoang dại của tôi, gắn với những niềm vui của bà con làng xóm, của ông bà, bố mẹ và của chính bản thân tôi. Kẻ Gỗ đã, đang và sẽ luôn là cội nguồn tốt tươi của cuộc sống. Xin được dùng những dòng thơ của nhà thơ Xuân Hoài viết vào tháng 5/1977 trong bài “Nước hồ Kẻ Gỗ” làm lời kết cho một thời để nhớ:
“Lòng vui muốn chia trăm dòng nước chảy
Nước lên đồng trẻ lại cả trời mây .
Mây cũng xuống với bầy em bơi nhảy
Trời xanh soi gương mặt mới đất này”
Thái Văn Sinh
Huyện Cẩm Xuyên có diện tích tự nhiên 637,04 km2, dân số trên 190.830 người, có 21 xã và 01 thị trấn; phía Bắc giáp huyện Thạch Hà và thành phố Hà Tĩnh, phía Đông giáp Biển Đông, phía Nam giáp huyện Kỳ Anh, phía Tây giáp huyện Hương Khê và tỉnh Quảng Bình. Núi và biển chạy song song đăng đối hài hòa, đã tạo nên một Cẩm Xuyên hội tụ đủ các tiểu vùng sinh thái: Đồi núi, đồng bằng, ven biển. Cẩm Xuyên được du khách gần xa biết đến với non nước hữu tình, cảnh quan thiên nhiên đa dạng, phong phú, giàu tiềm năng phát triển du lịch, dịch vụ, nổi bật là Khu du lịch biển Thiên Cầm, Khu du lịch sinh thái hồ Kẻ Gỗ, các hồ đập lớn như Thượng Tuy, sông Rác...
Hồ Kẻ Gỗ thuộc làng Việt cổ ở xã Mỹ Duệ, nay thuộc xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, cách Thành phố Hà Tĩnh khoảng 15 km về phía Tây Nam. Kẻ Gỗ xưa nằm dọc theo hai bờ sông Rào Cái. Rào Cái là dòng sông hội tụ của hàng trăm dòng kẻ (khe suối) của 2 dãy núi Hoành Sơn và Trường Sơn đổ về. Mùa nắng, sông Rào Cái khô hạn, mùa mưa thường xảy ra ngập úng, lũ quét, trở thành tai ương cho cả vùng phía Nam Hà Tĩnh. Từ những năm đầu thế kỷ XX, người Pháp đã nghĩ đến việc đắp đập chế ngự dòng sông này; họ thiết kế và bắt đầu thi công một số hạng mục công trình thì chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ và sau đó là chiến tranh Đông Dương, dẫn đến công trình bị bỏ dở.
Ngày 15/6/1957, Bác Hồ về thăm Hà Tĩnh, khi nói chuyện với cán bộ lãnh đạo tỉnh, Bác Hồ đã nhắc nhở “Hà Tĩnh cần lục lại và nghiên cứu hồ sơ hồ Kẻ Gỗ để khi nào có thời cơ thì tiến hành xây dựng”. Sau này, Trung ương đã cử các nhà khoa học thủy lợi Việt Nam vào khảo sát thiết kế công trình. Ngày 23/12/1974, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký quyết định về việc đồng ý xây dựng công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ. Tháng 1/1976, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được sáp nhập, trở thành tỉnh Nghệ Tĩnh; và đúng vào ngày 26/3/1976, công trình thế kỷ đại thủy nông Kẻ Gỗ được khởi công trong sự vui mừng và hào hứng lên đường của hàng vạn người dân Nghệ Tĩnh, đã được nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý khắc họa sống động bằng lời dâng tặng cho đời một tác phẩm mang dấu ấn thời đại là bài hát “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ”: “Ðắp hồ xây đập, ta đưa dòng nước ngọt/ Để dòng mương nhỏ tắm mát quanh năm/ Ruộng đồng ta thỏa mơ uớc bao ngàn năm”.
Với chiến dịch thần tốc và “sức mạnh Nghệ Tĩnh”, “tay anh phá đá, tay em đào sỏi…” chỉ tròn 3 năm, ngày 26/3/1979 công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ đã được khánh thành, sớm hơn so với dự kiến 3 năm, lưu vực hồ rộng 223km2 với dung tích 345 triệu m3. Công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ chính là công trình của ý Đảng lòng dân, là biểu tượng về ý chí vượt lên gian khó của người dân Nghệ Tĩnh sau khi đất nước hòa bình thống nhất, đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Công trình khánh thành được đưa vào khai thác, sử dụng đã thay đổi cuộc sống của hàng vạn hộ dân, vực dậy những vùng quê lam lũ đói nghèo vì thiếu nước trong sản xuất và sinh hoạt, biến vùng đất khô hạn của các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Thành phố Hà Tĩnh… thành những vựa lúa khổng lồ, thúc đẩy nền nông nghiệp Hà Tĩnh tăng trưởng đột phá, góp phần quan trọng ổn định dân sinh, khắc phục hậu quả chiến tranh.
Đến hôm nay, hồ Kẻ Gỗ vẫn là công trình thủy nông trọng yếu của tỉnh Hà Tĩnh và cũng là một trong những hồ đập lớn nhất Việt Nam, không chỉ đảm bảo công tác cắt lũ, xả lũ, giảm lũ, giảm xói mòn vùng hạ, mà trong suốt gần 50 năm qua dòng nước mát từ hồ Kẻ Gỗ đã nuôi dưỡng những cánh đồng, làng mạc trù phú, giúp bà con nông dân từ chỗ có cơm no nay đã làm giàu khi năng suất lúa bình quân 6 - 7 tấn/ha...
Với phong cảnh hữu tình được kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên trời đất ban tặng và trí tuệ, công sức con người dựng nên, hồ Kẻ Gỗ đã trở thành danh thắng nổi tiếng của quê hương Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, là điểm đến du lịch đầy quyến rũ đối với du khách gần xa. Với vẻ đẹp bốn mùa xanh thăm thẳm, hồ Kẻ Gỗ được ví là “Biển Tây” của huyện Cẩm Xuyên. Len lỏi giữa mênh mông núi rừng, hồ Kẻ Gỗ trở thành chiếc gương lớn phản chiếu sắc núi, sắc đồi nơi đây. Giữa dòng Kẻ Gỗ lãng du nước chảy, cây cối vẫn sinh trưởng và tỏa bóng rợp mát, trên mặt hồ điểm xuyết hàng trăm ốc đảo lớn nhỏ, tạo nên một bức tranh sơn thủy sinh động, in hình bóng diệu kỳ mà hiếm nơi nào có được.
Nằm trong quần thể Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ (BTTN), hồ được bao phủ bởi bởi quần thể sinh vật (rừng), trong đó có nhiều loại cây gỗ có tên trong Sách đỏ Việt Nam cùng nhiều loài động, thực vật quý hiếm. Theo thống kê chưa đầy đủ, Khu BTTN Kẻ Gỗ có 567 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 367 chi và 117 họ, trong đó có hơn 40 loại cây thân gỗ, có nhiều loại có trong sách đỏ Việt Nam như: Lim xanh, sến mật, gụ, lau, vàng tâm, trầm hương, song mật, lát hoa, côm bạch mã…. Tại đây đã phát hiện được hơn 392 loài động vật có xương sống thuộc 99 họ; Gà Lôi lam đuôi trắng, một trong ba loài Gà Lôi đặc hữu của Việt Nam đang trong tình trạng bị đe doạ tuyệt chủng và nhiều loại quý hiếm khác. Trong 47 loài thú ở đây có 18 loài (chiếm 21%) được ghi vào sách đỏ Việt Nam và thế giới. Rừng Kẻ Gỗ cũng là xứ sở của các loại mộc lan, phong lan đẹp và quý như quế hương, tai tượng, tai trâu, đuôi chồn, nghinh xuân, phượng vĩ…
Hồ Kẻ Gỗ, không chỉ có vẻ đẹp của núi rừng hùng vỹ, thơ mộng, của mặt hồ lóng lánh “gương soi”, mà hồ Kẻ Gỗ còn là địa chỉ đỏ, địa chỉ văn hóa, lịch sử. Nổi bật là Đền thờ Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn được xây dựng trên một hòn đảo mang tên Ông; đó cũng là một trong những hòn đảo đẹp nhất, thơ mộng và gần bờ nhất ở hồ Kẻ Gỗ. Đền thờ Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn được khởi công xây dựng năm 2011 và khánh thành vào đầu năm 2014; Đền tọa lạc trên một hòn đảo nhỏ ngay giữa lòng hồ Kẻ Gỗ với khuôn viên có diện tích 320m2, quay về hướng Tây Bắc; đường ra đền thờ đã được xây một cây cầu hình bán nguyệt; Đền thờ được trưng bày các bức ảnh trắng đen, ghi lại cảnh những chuyến thăm, công tác của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn ở Nghệ An và Hà Tĩnh và thời điểm thi công hồ Kẻ Gỗ; ngày 18/3/2021, Đền thờ được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Cách Đền thờ Cố Tổng bí thư Lê Duẩn khoảng 45 phút đi thuyền máy trên lòng hồ Kẻ Gỗ, là điểm đến linh thiêng - Đền thờ các anh hùng liệt sỹ tại hồ Kẻ Gỗ được xây dựng để tưởng nhớ, tri ân các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh tại trận địa sân bay dã chiến Libi và tuyến đường 21, 22 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Công trình Đền thờ anh hùng liệt sỹ tại hồ Kẻ Gỗ được xây dựng với tổng diện tích khoảng 5.000m², do Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đứng ra vận động nguồn lực xã hội hóa thực hiện. Khu vực lòng hồ Kẻ Gỗ từng là chiến trường ác liệt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Chính ngay giữa lòng hồ hiện nay là con đường chiến lược số 21, 22, sân bay dã chiến LiBi trong kế hoạch bí mật nhằm tạo huyết mạch giao thông mới để quân và dân ta chi viện sức người, sức của cho chiến trường Miền Nam và đánh trả 2 cuộc chiến tranh phá hoại Miền Bắc của đề quốc Mỹ. Các công trình này ghi dấu những chiến công và sự hy sinh thầm lặng của cán bộ, chiến sĩ, lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và người dân địa phương. Đặc biệt, tại sân bay Libi đã diễn ra các trận tập kích ác liệt của không quân Mỹ vào sáng 02/9/1968 và đêm 7/1/1973, gây nhiều thương vong cho quân dân miền Bắc, cướp đi sinh mạng của nhiều chiến sỹ, công nhân viên quốc phòng, dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong và phá hủy hoàn toàn sân bay dã chiến Libi. Được xây dựng trong lòng hồ, hài hòa khiêm nhường giữa các tán cây bản địa, Công trình là một điểm đến tâm linh - sinh thái đặc biệt của Cẩm Xuyên. Bên cạnh hoạt động đền ơn đáp nghĩa, ngôi đền cũng sẽ gửi đến tương lai một thông điệp về khát vọng hòa bình và phát triển bền vững cho đất nước, là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống văn hóa, cách mạng vẻ vang của quê hương cho các thế hệ.
Cùng với sứ mệnh về kinh tế, dân sinh, với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, hiếm có và giá trị lịch sử, văn hóa, hồ Kẻ Gỗ đã trở thành đề tài sáng tác, niềm cảm hứng bất tận cho nghệ thuật của các nhà thơ, nhạc sĩ, các nhà làm phim, nhà nhiếp ảnh, báo chí và thời trang... Bên cạnh ca khúc nổi tiếng “ Người đi xây hồ Kẻ Gỗ” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, đã có hàng chục ca khúc viết về Kẻ Gỗ hoặc nhắc đến địa danh Kẻ Gỗ. Các nhiếp ảnh gia, các hội nghệ sĩ nhiếp ảnh ở khắp mọi miền Tổ quốc đã tìm đến Kẻ Gỗ ở các mùa, các thời điểm khác nhau để sáng tác nên hàng trăm bức ảnh nghệ thuật có giá trị. Nhiều bộ ảnh về các bộ sưu tập thời trang cũng đã được các nhà thiết kế thực hiện tại đây để quảng bá... Nơi đây cũng được đông đảo các nhà khoa học trong nước và ngoài nước tham quan nghiên cứu, được nhiều doanh nghiệp, công ty du lịch trong nước khảo sát, kết nối tour tuyến du lịch.
Với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và giá trị đa dạng sinh học cao, Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ đã được Đại hội Đảng bộ huyện Cẩm Xuyên khóa XXXII xác định nhiệm vụ đột phá trong phát triển dịch vụ, du lịch: “Đẩy mạnh phát triển du lịch, dịch vụ gắn với phát triển đô thị biển Thiên Cầm, du lịch sinh thái Kẻ Gỗ, Thị trấn Cẩm Xuyên, đưa du lịch và dịch vụ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, là động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện”. Hồ Kẻ Gỗ cũng được Tỉnh Hà Tĩnh xác định là một trong những trọng điểm du lịch ưu tiên đầu tư phát triển; UBND tỉnh Hà Tĩnh đã phê duyệt đồ án quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch Hồ Kẻ Gỗ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với diện tích 4.800ha.
Mặc dù địa phương đã có nhiều nỗ lực để đầu tư, kết nối, thu hút đầu tư để khai thác, phát triển du lịch hồ Kẻ Gỗ xứng tầm với tiềm năng, lợi thế, tuy nhiên đến nay việc phát triển du lịch ở Kẻ Gỗ còn nhiều khó khăn, nhất là việc phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ du lịch, hoạt động tuyên truyền quảng bá, vì vậy lượng khách đến tham quan chưa nhiều.
Với tiềm năng lớn về cảnh quan thiên nhiên, di sản và những câu chuyện truyền thuyết, lịch sử, hồ Kẻ Gỗ bao chứa nhiều tiềm năng đang chờ đón các nhà đầu tư khai thác phát triển du lịch sinh thái với nhiều loại hình giải trí như đua thuyền, lướt ván, leo núi, câu cá và xây dựng các khu thể thao, kết nối tour tuyến trong nước và quốc tế. Cùng với du lịch biển Thiên Cầm, thì những dự án du lịch, dịch vụ ở Cẩm Xuyên được đầu tư sẽ góp phần quan trọng tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội cho địa phương trong tương lai.
Kẻ Gỗ có gì?
Theo Ban quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, tổng diện tích rừng mà cơ quan này được giao quản lý là 44.271,81 ha, trong đó: diện tích quy hoạch lâm nghiệp là 41.480,71 ha và diện tích đất ngập nước là 2.791,10 ha. Trong đó, diện tích rừng tự nhiên là 31.165,67 ha, bao gồm rừng đặc dụng 20.870,45 ha, rừng phòng hộ 8.897,74 ha, rừng sản xuất 1.397,48 ha. Khu BTTN Kẻ Gỗ có một hệ động thực vật rất phong phú với gần 400 loài động vật có xương sống thuộc 99 họ, 47 loài thú, 298 loài chim, 100 loài bò sát lưỡng cư, trong đó có 18 loài thú được đưa vào Sách đỏ Việt Nam và thế giới. Tại đây đã tìm thấy quần thể của 5 loài chim đặc hữu có vùng phân bố hẹp, trong đó Gà Lôi lam mào đen và Gà Lôi Hà Tĩnh là hai loài đang bị đe dọa tuyệt chủng trên toàn cầu. Về thực vật có 567 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 367 chi và 117 họ, phổ biến tại tầng cây bụi có các loại cây trong họ Cau dừa. Đặc biệt, vùng rừng hồ Kẻ Gỗ còn sở hữu hơn 40 loài cây thân gỗ, trong đó có nhiều loài gỗ quý, nhiều loài gỗ có tên trong sách đỏ Việt Nam (như sến, lim, táu,..); nhiều loài cây cảnh quý và đẹp như mộc lan, phong lan...
Trong 80 loài Thú đã được ghi nhận được ở Khu BTTN Kẻ Gỗ, có tổng số 40 loài quý hiếm, trong đó có 25 loài trong danh lục đỏ IUCN (2020); 31 loài trong sách đỏ Việt Nam (2007); 46 loài theo phân loại CITES; 36 loài trong Nghị định 06/2019-NĐ-CP ngày 22/01/2019 và 22 loài trong Nghị định 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019. Bên cạnh đó, trong 298 loài chim đã được ghi nhận được ở Khu BTTN Kẻ Gỗ, có tổng số 43 loài quý hiếm, trong đó có 13 loài trong danh lục đỏ IUCN (2020); 11 loài trong sách đỏ Việt Nam (2007); 25 loài theo phân loại CITES; 33 loài trong Nghị định 06/2019-NĐ-CP ngày 22/01/2019 và 9 loài trong Nghị định 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019. Ở đây cũng ghi nhận có 63 loài Bò sát, trong đó có tổng số 18 loài quý hiếm, trong đó có 10 loài trong danh lục đỏ IUCN (2020); 12 loài trong sách đỏ Việt Nam (2007); 15 loài theo phân loại CITES...
Về giá trị văn hóa, lịch sử, nét đẹp độc đáo, Khu BTTN Kẻ Gỗ có nhiều hồ, đập như: Hồ Kẻ Gỗ, Sông Rác, Rào Trổ, Thượng Tuy, Khe Xai... Trong đó, có hồ Kẻ Gỗ là một đại công trình thủy nông cung cấp, điều tiết nguồn nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, cung cấp nguồn thủy sản dồi dào; là vùng cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, tạo tiền đề cho phát triển du lịch, dịch vụ sinh thái, nghỉ dưỡng. Đồng thời mang giá trị nhân văn, giá trị tinh thần, biểu trưng do con người tạo ra từ xưa đến nay có thể thu hút khách du lịch đến thưởng thức. Các giá trị này sẽ là nguồn tài nguyên du lịch sẽ được đưa vào khai thác cho phát triển du lịch sinh thái trong tương lai.
Nguyễn Văn Thành
Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Cẩm Xuyên
Trang 2 / 7