Kẻ Gỗ là một công trình thủy nông lớn và phức tạp nhất từ trước đến nay của nước ta. Đập chính vắt qua một đệm cát dày 17 mét, sâu 6,4 mét so với mặt biển. Dòng Rào Cái khi qua đây bị động Đót và mõm Choòng kẹp lại, buộc phải dẫn dòng qua cống chính. Hệ thống kênh mương vừa dài vừa trải ra trên một vùng chằng chịt sông suối. Tất cả những đặc điểm đó đòi hỏi những người thi công vừa phải có trình độ tay nghề cao, vừa phải có những trang thiết bị hiện đại.
Trước cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp dự kiến làm xong công trình trong 20 năm, với sức chứa lòng hồ 85 triệu mét khối nước, nhưng do kỹ thuật quá phức tạp họ làm hai năm rồi bỏ. Đến năm 1973 điều kiện kinh tế và kỹ thuật tiến bộ hơn trước, Đảng và Nhà nước ta duyệt cho phép tỉnh ta xây dựng công trình Kẻ Gỗ.
Phương án thiết kế đầu tiên dự kiến làm 10 năm với sức chứa lòng hồ 345 triệu mét khối nước. Khi xét do yêu cầu cấp bách nước tưới cho đồng ruộng Cẩm Xuyên, Thạch Hà. Hội đồng Chính phủ rút xuống còn 6 năm. Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất. Nhất là sau khi hợp tỉnh, với thế mới, lực mới, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh xin rút thời gian thi công xuống 3 năm.
Đầu năm 1976, thời gian chuẩn bị đã hết, vậy mà các lực lượng thi công cơ giới còn nằm ngoài Bắc Thái, Hà Sơn Bình. Nhà cửa, lán trại, đường sá, cát sỏi... hầu như chưa có gì. Các thủ tục xây dựng cơ bản như đồ án thiết kế, dự toán... cũng chỉ mới chuẩn bị được một số. Bộ máy chỉ huy, phương pháp thi công... cũng chưa có. Tất cả những công việc chuẩn bị cho thi công đã có làm, nhưng chưa được bao nhiêu. Do yêu cầu rút ngắn thời gian thi công xuống 3 năm nên mọi mặt chuẩn bị cho thi công lớn gấp bội.
Đập chính hồ Kẻ Gỗ
Phải đưa những cỗ máy nặng ba bốn chục tấn vào hiện trường. Phải có ngay 3 vạn mét vuông nhà ở cho công nhân. Phải có ngay một vạn mét khối sỏi trong quý I-1976 để phục vụ xây lắp. Vậy mà cầu cống trên các ngã đường vào Kẻ Gỗ chỉ chịu được những cỗ máy nặng 10-15 tấn trở xuống. Trong lúc ấy nửa năm Công ty xây lắp mới làm được 2.000 mét vuông nhà ở...
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao giai cấp công nhân các đơn vị tham gia thi công kẻ gỗ biểu tượng rực rỡ của sức mạnh tổng hợp trên mặt trận xây dựng cơ bản đã tìm cách đưa máy móc, thiết bị vào hiện trường an toàn. Các đơn vị cơ giới hạng nặng từ Đập Đáy, Núi Cốc, Thường Tín, Hải Phòng, Vệ Vừng đã mở cuộc hành quân thần tốc vào Kẻ Gỗ. Có chặng máy phải đi trên đò dọc. Có nơi, thợ lái máy tự gia cố thêm cầu cho xe vượt qua. Có lúc, họ tháo rời và đưa từng bộ phận qua cầu, xong lại lắp lại và tiếp tục hành quân. Cuối tháng 3 năm 1976, khi công trường chính thức làm lễ khởi công, toàn bộ lực lượng cơ giới của hai công ty thủy lợi 3, thủy lợi 4 của Bộ và ba công ty của tỉnh đã có mặt đông đủ ở Kẻ Gỗ.
Cũng trong những ngày đó, giai cấp nông dân tập thể hai huyện Cẩm Xuyên và Thạch Hà mở chiến dịch làm nhà theo yêu cầu của tỉnh. Bằng tranh tre nứa, mét của mình trong vòng không đầy một tháng đã dựng lên ở khu đầu mối 5 vạn mét vuông nhà ở, vượt xa con số mà Bộ yêu cầu. Từ việc làm nhà cửa chuyển sang sản xuất cát sỏi. Từ đầu mối, xuống kênh mương, lớp lớp nông dân ào ạt tiến vào Kẻ Gỗ. Vừa giải quyết những yêu cầu cấp bách của công trường, vừa sắp xếp đội ngũ, ổn định tổ chức tham gia xây dựng lâu dài.
Viện thiết kế thủy lợi, viện khoa học thủy lợi... cử cán bộ vào công trường nghiên cứu giải quyết từng bản vẽ, từng biện pháp kỹ thuật. Ngành nội thương lập hẳn cả một khu thương nghiệp phục vụ công nhân. Các ngành sách, báo chí, nội chính... cũng đưa lực lượng và phương tiện vào phục vụ lâu dài ở Kẻ Gỗ.
Từ những hoạt động tự giác và độc lập của các cấp, các ngành, các đơn vị, Kẻ Gỗ đã đi dần vào thế trận thi công đồng bộ. Từ đầu mối đến kênh mương, từ xây lắp đến đào đắp, thi công tập trung, dứt điểm từng hạng mục công trình. Việc thi công có sự phân công và hợp tác giữa trung ương với địa phương, giữa thủ công với cơ giới, giữa các lực lượng tập trung thường xuyên trên công trường và các lực lượng lao động huy động đột xuất, giữa hai bên A và B... Với cách thi công đó các hạng mục công trình mọc lên rất nhanh, tạo thế liên hoàn khép kín ngay từ đầu cho phép đưa công trình vào khai thác ngay trong khi còn xây dựng.
Gần ba tháng, từ đầu tháng 2 đến cuối tháng 4-1976, Kẻ Gỗ đã ổn định việc tổ chức, chuẩn bị đủ điều kiện thi công. Cùng thời gian ấy bộ máy chỉ huy, phương pháp chỉ đạo thi công cũng được hình thành. Đó là thắng lợi bước đầu hết sức cơ bản, báo trước Kẻ Gỗ sẽ là công trường của thời kỳ mới. Đó còn là biểu hiện sự nhạy bén về chính trị, nắm vững thời cơ và tinh thần làm chủ tập thể của các cấp, các ngành từng cá nhân đơn vị trên công trường.
Tham gia xây dựng Kẻ Gỗ, về cơ giới, có hai công ty thủy lợi 3 và thủy lợi 4 của Bộ và công ty xây dựng thủy lợi số 2 của tỉnh. Về lực lượng thủ công, thường xuyên trên công trường có một vạn đội viên đội thủy lợi “202” thuộc 400 đội, 19 tổng đội và hàng vạn lượt người huy động đột xuất từ các hợp tác xã, các khu phố, các cơ quan, xí nghiệp trường học, đơn vị bộ đội.
Lúc đầu hai công ty của Bộ nhận thi công các công trình đầu mối. Các đơn vị của tỉnh làm hệ thống kênh mương. Các đơn vị chuyên nghiệp làm các công trình kỹ thuật phức tạp, còn các tổng đội “202” làm kênh mương. Qua vài tháng thi công thấy sự phân công đó chưa hợp lý. Các công ty cơ giới thiếu lao động thủ công để giải quyết những công việc máy móc không với tới. Trái lại lao động thủ công thiếu phương tiện cơ giới để hoàn thành một số công việc đòi hỏi chất lượng kỹ thuật cao. Công trường đã điều chỉnh lại cho hợp lý, hai công ty của Bộ làm thêm cho tỉnh 10 ki-lô-mét kênh chính, trong đó có hai cầu móng lớn. Ngược lại các đơn vị của tỉnh cung cấp lao động thủ công cho các công ty cơ giới. Sự hợp tác xã hội chủ nghĩa này đã tạo nên sự hợp tác rộng lớn giữa máy và người, giữa tổ chức kinh tế toàn dân với tổ chức kinh tế tập thể. Ở đầu mối, lao động thủ công có mặt ở khắp nơi và làm đủ các thứ công việc: đổ bê tông, ghép tấm lát, tiếp dầu, sửa chữa đường sá, bến bãi, kho tàng. Ở kênh mương máy giúp người xăm đầm, bạt mái... Sự hợp tác sâu rộng giữa người và máy đã đưa đến những phương pháp thi công mới. Công ty xây dựng thủy lợi 3, áp dụng phương pháp nổ mìn om, phá vỡ hàng chục vạn mét khối đá trong một thời gian ngắn mà không làm rạn nứt móng công trình. Công ty xây dựng thủy lợi 4 cải tiến công thức pha trộn dung dịch Bentônít, cho phép dùng nguyên liệu tại chỗ, vừa tiết kiệm cho Nhà nước hàng chục vạn đồng lại vừa rút ngắn được thời hạn xử lý vực Choòng và túi cát. Công ty xây dựng thủy lợi 2 lần đầu tiên sáng tạo ra phương pháp thi công kênh ba tầng, khai thác tối đa năng lực thiết bị xe máy, đỡ cho lao động thủ công rất lớn...
Hình thức tổ chức và phương pháp thi công mới đã tạo nên những năng suất lao động mới. Trong một tháng công ty xây dựng thủy lợi 3 đổ 2.500 mét khối bê tông, công ty xây dựng thủy lợi 4 đưa lên đập chính 350.000 mét khối đất bằng khối lượng hàng quý trước đây của các công ty này. Trong vòng không đầy 10 tháng, Công ty xây dựng thủy lợi 2 làm xong máng Rào Cái, cầu máng lớn nhất, dài nhất từ trước đến nay của ngành thủy lợi Việt Nam, vượt thời gian quy định 3 tháng. Các đội “202” cũng trưởng thành vượt bậc. Lần đầu tiên lao động thủ công xây dựng được những công trình bằng đất có dung trọng 1,6 tấn mỗi mét khối. Tổng đội “202” Hương Khê xây dựng một loạt cống tiêu lớn trên nền cát chảy trước đây các công ty chuyên nghiệp mới làm được.
Công trường Kẻ Gỗ mở ra giữa lúc vật tư, nhiên liệu, lương thực, thực phẩm có khó khăn. Để có đủ vật tư, nhiên liệu... phục vụ cho công trường, các đơn vị cung ứng, phục vụ đã đáp ứng tốt những nhu cầu của công trường. Để có thép CT5 cho công trường, Công ty vật tư kỹ thuật tỉnh phải bỏ tiền thuê máy móc thiết bị dở 1.200 tấn hàng của mình.
Cán bộ cung ứng của tỉnh còn rải khắp Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng... và tổ chức từng đợt tiếp nhận khẩn trương vận chuyển vật tư thẳng vào công trường. Có thời điểm thiếu xăng dầu, tỉnh phải rút bớt các nhu cầu khác để chi viện cho Kẻ Gỗ. Ngành ngoại thương mở chiến dịch thu mua nông sản để đổi sắt thép cho công trường. Tỉnh ủy hoãn việc xây dựng một số công trình chưa cần để dành xi măng cho Kẻ Gỗ. Nhu cầu lương thực, thực phẩm cũng được giải quyết tốt, công nhân công trường dùng hết các ô trong phiếu thực phẩm của mình. Rạp chiếu bóng Kẻ Gỗ cũng được cung cấp một chương trình phim như các rạp ở thành phố Vinh...
Song song với việc chạy hàng, tỉnh thường xuyên cải tiến chế độ phân phối bảo đảm dù bất cứ trường hợp nào, vật tư, hàng hóa cũng được ưu tiên cho các công trình trọng điểm. Mùa hè 1976, toàn bộ dầu máy chỉ dành cho các đơn vị thi công các công trình đầu mối, xi măng, sắt, thép 6 tháng cuối năm 1976 chỉ dành cho công ty 3 và công ty 4 là hai đơn vị làm cống chính và máng Cầu Na...
Sự cố gắng vượt bậc của Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta để bảo đảm hậu cần cho các đơn vị đẩy nhanh tốc độ thi công từ đầu mối đến kênh mương, đã tác động sâu sắc đến các cơ quan Trung ương giúp tỉnh ta xây dựng nhanh công trình Kẻ Gỗ.
Một số vấn đề về công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Sau khi được chấp nhận việc thi công công trình Kẻ Gỗ Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh thông qua Ban đại diện tại công trường đã bám sát tiến độ thi công, dự kiến các tình huống phức tạp mới, chỉ đạo các đơn vị vào những thế trận mới, tạo ra thời cơ mới, nhằm dứt điểm từng hạng mục công trình, rút ngắn hơn nữa thời gian thi công.
Kẻ Gỗ là một hệ thống nhiều công trình, trong đó một số hạng mục công trình như cống chính, đập chính, tràn xả lũ, máng Rào Cái cũng đã bằng một công trình thủy lợi lớn nơi khác. Các đơn vị thi công, phục vụ vừa đông vừa dàn trải. Việc tổ chức chỉ huy các lực lượng đó thi công ở đâu, thi công thế nào... để đạt được mục tiêu nhanh, đồng bộ, dứt điểm... là cả một vấn đề vô cùng phức tạp.
Việc đầu tiên là công trường chọn mũi tiến công chủ yếu, công trình đó sau khi được xây dựng sẽ kéo một loạt công trình khác cũng được xây dựng theo. Thời kỳ đầu, mũi đó được đặt vào hệ thống kênh mương. Trước đây ngành xây dựng cơ bản thủy lợi thường xây dựng công trình đầu mối trước, sau đó mới làm kênh mương. Trong hệ thống kênh mương, kênh chính làm xong trước. Ở Kẻ Gỗ, cách làm đó bị đảo lộn, hệ thống kênh cấp 1 được xây dựng xong trước kênh chính.
Cách làm này buộc các đơn vị thi công các công trình đầu mối phải vươn lên để đáp ứng với phương châm vừa xây dựng “vừa phát huy tác dụng”. Việc Công ty 4 hợp long và Công ty 3 mở nước vào đầu năm 1977 được xem như là kết quả của việc chọn mũi tiến công chủ yếu lần thứ nhất. Kết quả đó còn là mũi đột phá cho một thời kỳ làm ăn mới của Kẻ Gỗ. Sau sự kiện này, Kẻ Gỗ luôn luôn ở thế tiến công. Một loạt công trình trọng yếu của đập chính như chân đanh, sân tiêu năng... được hoàn thành bằng cách làm đó.
Sau khi xử lý xong chân đanh, một đòi hỏi lớn được đặt ra là phải tích nước để phục vụ sản xuất. Từ cuối 1977 lại nay, mũi tiến công chủ yếu này là “điểm nóng” của công trường Kẻ Gỗ. Lúc này, trên đồng ruộng đang có phong trào mở rộng hệ thống kênh mương để khai thác kịp thời và hợp lý 140 triệu mét khối nước trong lòng hồ.
Sau khi có mục tiêu chủ yếu, vấn đề có tính chất quyết định là tập trung lực lượng Kẻ Gỗ đã có lúc tập trung 2 vạn người trong một vùng nhà cửa của dân chỉ chứa nổi 3.000 người. Thời kỳ xử lý vực Choòng, tỉnh đã đưa toàn bộ lực lượng máy bơm nước vào đây để phục vụ cho Công ty 4 hoàn thành nhiệm vụ.
Ở Kẻ Gỗ không có một ban chỉ huy chung như ở các công trường khác mà có hai ban đại diện Bộ Thủy lợi và Ủy ban nhân dân tỉnh. Tất cả các ban này đều đóng ngay ở công trường. Phía dưới đại diện của bộ và tỉnh có các ban A và B.
Bình thường, các ban B theo các hợp đồng đã ký với ban A mà hoạt động. Hai ban đại diện chỉ theo dõi tình hình dự kiến các mục tiêu chiến dịch và phối thuộc hành động của các lực lượng thi công phục vụ để đạt các mục tiêu đó. Khi có việc các tổ chức này cộng tác với nhau lập ra các tổ chức chỉ huy chung, như hội đồng mở nước, ban chỉ huy chống bão lụt... hoạt động trong một thời gian nhất định, nhằm giải quyết một công việc nhất định. Thoạt nhìn cách tổ chức chỉ huy này có cái gì như là rời rạc, bị động, nhưng thực ra đó là cách tổ chức chỉ huy sáng tạo, thích hợp với tình hình ở Kẻ Gỗ.
Một điều đặc biệt, gần ngày khởi công, Kẻ Gỗ mới có chủ trương rút thời gian thi công xuống 3 năm. Với chủ trương đó, các lực lượng cơ giới, hàng vạn lao động thủ công ào ạt kéo về công trường. Hệ thống chỉ huy cũ trước đây không đủ sức quản lý nữa. Từ đó hình thành hình thức tổ chức mới, cách làm ăn mới. Mỗi đơn vị được giao thi công công trình này thì ký hợp đồng với ban A.
Sau khi công trường kênh của tỉnh giải thể, nhiệm vụ xây dựng kênh mương bàn giao lại cho các tổng đội “202”. Những tổng đội này chuyển từ chế độ dân công sang chế độ hạch toán, kinh doanh. Toàn công trường hoạt động hoàn toàn theo chế độ hạch toán kinh doanh, xóa bỏ chế độ quản lý hành chính.
Do không phải tính toán lỗ lãi trong sản xuất, kinh doanh nên các ban đại diện có điều kiện theo dõi nghiên cứu những công việc có ý nghĩa toàn cục. Nhờ đó mà Bộ và tỉnh đã phát hiện và nắm bắt kịp thời những vấn đề mới xuất hiện thường xuyên trên công trường. Dự kiến và khắc phục từ xa những khó khăn mà công trường sẽ gặp phải.
Trong khí thế sục sôi thời ấy, ai cũng cố gắng về đích trước thời gian. Qua hai năm sau khi công trình Kẻ Gỗ đã làm sáng tỏ một trong những luận điểm lớn của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ tư rằng: Đất nước ta có thể hoàn thành việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội trong vòng 15-20 năm. Chính vì vậy mà ngay từ đầu, Kẻ Gỗ đã có một tiếng vang rất lớn trong cả nước.
(Nguồn: Đại Thủy nông Kẻ Gỗ: Bốn mươi năm xây dựng và phát huy hiệu quả)
Nguyễn Hoàng Trạch
Nguyên Phó chủ tịch UBND Hà Tĩnh
Được sự đồng ý của tác giả, Ban biên tập trân trọng trích giới thiệu một phần trong hồi ký của ông Trần Quốc Thại, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh về bối cảnh và quá trình xây dựng công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ.
“...Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối. Nhân dân cả nước phấn khởi tự hào, vững bước tiến lên dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, xây dựng nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ đã hằng mong muốn.
Với định hướng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong giai đoạn mới, Trung ương quyết định đưa các tỉnh nhỏ trong cả nước hợp nhất lại thành tỉnh lớn. Ngày 27/12/1975, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh lại thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Năm 1976, năm đầu tiên hợp nhất tỉnh mới, đồng chí Nguyễn Sĩ Quế làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Tiến Chương làm Phó Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Trương Kiện làm Chủ tịch UBND, đồng chí Trần Quang Đạt làm Phó Chủ tịch UBND tỉnh.
Những năm 1976-1986, Nghệ Tĩnh sống trong cơ chế quan liêu bao cấp, nên các cán bộ và nhân dân Nghệ Tĩnh, thuộc diện nghèo và khổ nhất trong cả nước. Cái khổ dễ thấy nhất là Nghệ Tĩnh thiếu lương thực nghiêm trọng, lãnh đạo tỉnh phải chạy đôn chạy đáo, xin Trung ương viện trợ lương thực. Chả thế mà thời kỳ này, có câu hát chế diễu: “Nghệ Tĩnh mình ơi! Trung ương gọi lấy mì/ Bạn về với vợ đèo mấy cân ngô” hoặc “Năm tám mươi gạo thóc tám mươi/ Dân xứ Nghệ mắt vàng như nghệ”. Những hình ảnh này là hình ảnh có thật, chứ không ngoa dụ chút nào. Ai chứng kiến mới thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ với nhân dân Nghệ Tĩnh thời kỳ này. Nghệ Tĩnh nghèo có những nguyên nhân cơ bản của nó: - Thứ nhất, do hậu quả của chiến tranh để lại. - Thứ hai, do cơ chế quan liêu bao cấp trì trệ kéo dài, chưa phát huy được năng lực của dân và sức dân. - Thứ ba, do bão lụt và hạn hán thường xuyên uy hiếp. Đặc biệt, hai trận lụt thế kỷ xảy ra vào tháng 8 và tháng 9 năm 1978 khiến Nghệ Tĩnh bị mất mùa nặng. Thời điểm ấy, hầu hết cán bộ và công nhân trong cả tỉnh đều phải ăn mì hạt, sắn khô, khoai lang khô, ngô răng ngựa... trong những bữa ăn chính. Định mức gạo mà ngành lương thực cung cấp chỉ vài ba cân gạo thôi. Có những năm, cán bộ, công nhân mỗi người phải tự túc lương thực, suốt bốn tháng liền. Nhiều cơ quan phải năng động để “tự cứu mình trước lúc trời cứu” bằng cách liên hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương cho mượn đất ruộng, đất đồi để trồng lúa ngô, khoai, sắn. Ai đã trải qua thời kỳ ấy, chắc nghĩ lại bây giờ vẫn cảm thấy động lòng. Nhắc lại những kỷ niệm cũ, bỗng dưng tôi lại nhớ tới hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Khổ đau nhiều mới yêu thương lắm/ Quen vượt trùng dương lái vững tay”.
Lễ khởi công dự án hồ Kẻ Gỗ
Chúng tôi sống những ngày đầy gian khổ, nhưng đầy tình nghĩa anh em, chan chứa tình cảm đồng bào, đồng chí. Càng gian khổ lại càng đoàn kết. Chính trong tình thương yêu đùm bọc, đoàn kết đã tạo nên một sức mạnh lớn khiến nhân dân cả nước phải ngưỡng mộ bản lĩnh kiên cường, ý chí quyết tâm sắt đá của người Nghệ Tĩnh, để “Nổi trống lên ta hát bài Kẻ Gỗ/ Cờ búa liềm dậy đất Hồng Lam” kéo quân bước vào mặt trận mới. Đây là một công trình thế kỷ lớn vào loại nhất nước thời bấy giờ, hồ Kẻ Gỗ có sức chứa 345 triệu mét khối nước, tưới cho 21.000ha đất canh tác của các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà và thành phố Hà Tĩnh. Với phương án dự tính ban đầu phải hoàn thành trong 10 năm, sau đó dự tính 6 năm, và cuối cùng rút ngắn lại 3 năm. Để đạt được tiến độ thi công trong thời gian ngắn nhất, hồi ấy ngoài sử dụng các phương tiện cơ giới, tỉnh phải huy động lực lượng nhân dân cả tỉnh từ miền núi, tới miền xuôi, mang lương thực, thực phẩm cùng với dụng cụ ven, xuổng (thuổng), cuốc, xe cải tiến... dựng lán trại trên công trường. Thường xuyên trên công trường hàng ngày có khoảng 10 ngàn người tham gia làm thủy lợi. Không chỉ nhân dân mà cả đơn vị bộ đội, xí nghiệp, nông trường cũng được điều động tham gia. Đại công trình thủy nông Kẻ Gỗ thành công rực rỡ là biểu tượng của tinh thần làm chủ tập thể của những bộ óc thông minh sáng tạo. Một số cán bộ lãnh đạo cao nhất của tỉnh gánh vác sứ mệnh lớn như ông Trương Kiện, Nguyễn Tiến Chương, Trần Quang Đạt, Đinh Sĩ Nam, Nguyễn Hoàng Trạch là những người chỉ huy đầy năng động và sáng tạo. Sau khi Đại công trình hồ thủy nông Kẻ Gỗ thành công, Nghệ Tĩnh tiếp tục cuộc cách mạng thủy lợi trên các công trình Vách Bắc (Diễn Châu), Vực Mấu (Quỳnh Lưu), cống Đô Lương và công trình ngọt hóa sông Nghèn (Can Lộc).
Ông Trương Kiện, Chủ tịch UBND, ông Trần Quang Đạt, Phó Chủ tịch UBND tỉnh giao nhiệm vụ cho Ủy ban Kế hoạch tỉnh nắm vai trò kế hoạch vật tư, nhằm đảm bảo cho công trường Đại công trình thủy nông Kẻ Gỗ nguồn vật tư xi măng, sắt thép đối với một số hạng mục công trình quan trọng, các máy móc, cơ giới và xăng dầu. Đồng chí Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch tỉnh giao cho tôi trực tiếp lo liệu việc này. Một công việc tuy ở tuyến sau, có vẻ thầm lặng nhưng gian nan vất vả lại đi trước, quyết định thành bại như công tác hậu cần trong một chiến dịch quân sự.
Có những tháng tôi phải ra Hà Nội “gõ cửa” các cơ quan bộ ngành từ hai đến ba lần. Nhiều lúc không chủ động được xe cộ phải đi tàu hỏa. Tuy nhiên, tôi rất vui và quên hết mệt nhọc khi nghĩ về công trình Kẻ Gỗ, một ước mơ ngàn đời của người dân Hà Tĩnh đã hóa thành hiện thực. Đặc biệt, mỗi lần tôi tới công trình Kẻ Gỗ, được chứng kiến cả biển người trong cái nắng tháng sáu cháy da, cháy thịt đang hối hả người cuốc người ven, kẻ gánh kẻ gồng lẫn trong tiếng động cơ của máy ủi, tôi càng hiểu thêm sức mạnh vĩ đại từ tinh thần làm chủ tập thể thời ấy. Nhân đây, tôi xin nhắc lại về bản lĩnh, ý chí và sự thông minh sáng tạo của ông Trương Kiện và ông Trần Quang Đạt.
Ông Trương Kiện là con người hùng biện, trước diễn đàn hội nghị ông nói rất hấp dẫn người nghe. Bởi vì ông vừa có tư duy lý luận, lại có vốn sống thực tiễn, có sức thuyết phục các tầng lớp cán bộ đảng viên và quần chúng cao. Với phong cách làm việc “Nói đi đôi với làm”, ông rất được nhân dân quý trọng và tin tưởng. Dầu một chân ông Trương Kiện bị thương tật, người gầy, tóc bạc nhưng ông vẫn thường xuyên, siêng năng rèn luyện sức khỏe nên lúc nào da dẻ cũng hồng hào, giọng nói sang sảng đầy hào khí . Nơi nào khó khăn nhất, gian khổ nhất ông đều có mặt, khiến tôi và nhiều người khâm phục.
Trở lại chuyện xây hồ Kẻ Gỗ. Tôi còn nhớ ông Nguyễn Tiến Chương hồi còn làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh ra Hà Nội dự hội nghị Trung ương được Bác Hồ mời đến Phủ Chủ tịch gặp gỡ. Thời điểm ấy vào năm 1967, cả nước đang dốc lòng đánh Mỹ, các tỉnh ở Khu Bốn ngày đêm bị bom cày đạn xéo. Nhưng nhân dân vẫn hăng hái sản xuất, lao động và học tập. Ai cũng hừng hực trong lòng mình niềm tin chiến thắng. Sau khi nghe ông Nguyễn Tiến Chương báo cáo về đời sống nhân dân, mùa màng, khí thế sản xuất và chiến đấu của quân và dân Hà Tĩnh, Bác Hồ rất vui. Trong buổi gặp hôm ấy, Bác Hồ có nhắc nhở nên lục lại tập hồ sơ Kẻ Gỗ dưới thời Pháp thuộc, nghiên cứu dần đi. Nhớ lời Bác Hồ dặn, sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, vào khoảng tháng 8/1975 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã tổ chức họp bàn về chuyện xây dựng hồ Kẻ Gỗ. Sau đó, ông Nguyễn Tiến Chương chỉ đạo Ty Nông nghiệp Hà Tĩnh tổ chức một cuộc họp cán bộ cốt cán, thảo luận kỹ về nội dung quan trọng này. Cuộc họp diễn ra dưới sự chủ trì của đồng chí Phạm Ngọc Kính, Trưởng Ty Nông nghiệp Hà Tĩnh. Cuộc họp hôm đó có nhiều kỹ sư, nhiều chuyên gia đóng góp sôi nổi. Khi mọi kế hoạch đang bắt đầu triển khai thì tỉnh Hà Tĩnh hợp nhất với tỉnh Nghệ An trở thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Vừa mới ổn định công tác tổ chức về tỉnh mới chưa đầy một tháng, ông Nguyễn Tiến Chương, lúc này giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh đã trình nội dung chương trình xây dựng Hồ Kẻ Gỗ, xin ý kiến Ban Thường vụ Tỉnh ủy và ý kiến Ban Chấp hành Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh. Trong Thường vụ các đồng chí đều ủng hộ tuyệt đối, nhưng lúc đưa ra Ban Chấp hành, có một số ý kiến đại biểu vẫn chưa tán thành. Họ cho rằng xây một hồ lớn có dung tích 346 triệu mét khối nước lớn như vậy, sợ không làm nổi.
Trước một số ý kiến còn e ngại đó, ông Trương Kiện phủ quyết ngay. Ông dõng dạc tuyên bố: “Với khát vọng đưa lại cơm no áo ấm cho nhân dân, không có lý do gì chúng ta không làm được. Phải lấy tinh thần Xô viết Nghệ Tĩnh để tiên phong, lấy sức mạnh tổng hợp của dân và tinh thần làm chủ tập thể mỗi người, lấy hồ Kẻ Gỗ làm “mốc son” cho cuộc cách mạng thủy lợi”.
Sau đó các ông Nguyễn Bá, Nguyễn Tiến Chương, Trần Quang Đạt đều tán thành ý kiến của ông Trương Kiện. Cuộc họp hôm đó tôi có tham dự, nghe được rất nhiều ý kiến đồng tình cao với ông Trương Kiện. Đặc biệt ý kiến của ông Nguyễn Tiến Chương phát biểu trước nghị trường: “Chúng ta muốn chiến thắng đói nghèo và lạc hậu, không có con đường nào khác phải lấy nông nghiệp làm tiên phong. Khi chúng ta lấy nông nghiệp tiên phong, thì phải lấy thủy lợi làm tiên phong. Ước mong của nhân dân cũng là niềm mong mỏi của Bác Hồ lúc còn sống”.
Rồi ông Nguyễn Tiến Chương không quên nhắc lại lời dặn dò của Bác Hồ lúc ông được vinh dự gặp Bác tại Hà Nội. Tôi nhớ hôm đó ông Nguyễn Bá cũng hào hứng nói: “Đây là thời cơ chín muồi nhất, nên không còn chần chừ gì nữa. Xây dựng được công trình đại thủy nông này thành công là chúng ta đã thực hiện tốt di nguyện của Người. Điều khao khát ngàn đời của nhân dân huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà và thị xã Hà Tĩnh, mong mỏi cơm no áo ấm phụ thuộc vào điểm đột phá này…”.
Cuộc họp hôm ấy kết thúc thành công rực rỡ. Vài ngày sau ông Trương Kiện, Chủ tịch UBND tỉnh, ông Trần Quang Đạt, Phó Chủ tịch UBND tỉnh được Tỉnh ủy và UBND tỉnh Nghệ Tĩnh giao trọng trách trực tiếp chỉ đạo thi công. Khi ý Đảng đã quyết, lòng dân đã đồng thì không có khó khăn nào nhân dân Nghệ Tĩnh không vượt qua được, không có rào cản nào ngăn được sức dân như nước. Tôi còn nhớ mãi, tỉnh Nghệ Tĩnh đã quyết định chọn ngày 26/3 năm 1976, đúng ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là ngày làm lễ động thổ công trình Hồ Kẻ Gỗ, nhằm phát huy sức mạnh và ý chí của tuổi trẻ trên công trường.
Cả đêm ấy tôi cứ nằm thao thức mãi không làm sao ngủ được, chỉ mong sao gà gáy sáng để có mặt sớm trong buổi tham dự lễ khởi công. Đúng bốn giờ sáng, ăn vội bát cơm rang, tôi lọ mọ đạp xe đạp tới trụ sở Ủy ban Kế hoạch tỉnh, thấy hai thủ trưởng của mình là đồng chí Nguyễn Kỳ Cẩm và đồng chí Hoàng Duy Số đã có mặt. Khi chiếc xe U-oát vượt qua cầu phao Bến Thủy, ngước nhìn sông Lam và núi Hồng Lĩnh sương bọc trắng xóa, lòng tôi dạt dào cảm xúc nghĩ tới một ngày mai tươi sáng của Hà Tĩnh. khi vượt qua nhiều cung đường gồ ghề, khúc khuỷu đến sông Ngàn Mọ, nơi chuẩn bị làm lễ khởi công thì trời sáng hẳn. Tưởng mình đã đến sớm, hóa ra nhiều đồng chí lãnh đạo tỉnh còn đến sớm hơn. Một lúc sau, dòng người mang cồng kềnh nào ven, cuốc, gạo, mắm… ùn ùn kéo đến, đứng chật ních cả một ngọn đồi. Sáng hôm ấy trời quang mây tạnh, một rừng cờ đỏ bay phấp phới ngời lên trong ánh nắng ban mai. Đúng 7 giờ 30 phút, lễ khởi công bắt đầu. Sau buổi lễ ấy âm thanh những tiếng cuốc đầu tiên bắt đầu bổ xuống ngọn đồi. Kể từ ngày ấy trở đi, với khí thế dời non lấp biển, ngày nắng cũng như mưa, biển người bên dòng sông Ngàn Mọ không bao giờ vơi cạn...
Một tháng sau, tôi đến công trường Kẻ Gỗ để báo cáo số lượng vật tư Trung ương vừa cấp cho ông Trần Quang Đạt, người đang trực tiếp chỉ huy trên công trường biết. Trong cái lán tranh trên một ngọn đồi cao hôm đó tình cờ tôi thấy ông Đạt đang say sưa nói chuyện với một người đàn ông trạc tuổi tứ tuần. Tôi loáng thoáng nghe ông Đạt kể về địa lý và lịch sử khu vực sông Ngàn Mọ cho vị khách này nghe. Khi thấy tôi xuất hiện, ông bảo tôi ngồi xuống ghế, rồi giới thiệu:
- Đây là nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, tác giả bài hát “Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh” đấy.
Tôi vui quá vội thốt lên:
- Thời chống Mỹ anh viết “Bài ca năm tấn” ca ngợi quê hương Thái Bình. Tôi nghe ca sĩ hát trên đài, lòng đầy tự hào với khí thế hậu phương chia lửa cùng tiền tuyến. Bát hát ấy không chỉ khích lệ nhân dân Thái Bình mà còn khích lệ nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Qua thông tin nhiều người, tôi biết anh quê mẹ ở xã Hộ Độ, nên anh rất cảm tình với Hà Tĩnh. Bài hát “Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh” sẽ là tác phẩm trường tồn đi cùng năm tháng.
Lúc này, nhạc sĩ nở một nụ cười tươi rồi bảo:
- Tôi có được bài hát đó chính là nhờ ông Trần Quang Đạt. Hai tháng đi thực tế từ rừng xuống biển tôi mới hiểu được đất và người Hà Tĩnh, hiểu được mục tiêu phát triển kinh tế - văn hóa Hà Tĩnh, hiểu một Hà Tĩnh đang khát vọng vươn lên, nhờ đó ca khúc ấy mới thành công.
Ông Trần Quang Đạt ngồi cạnh, hút tàn hơi điếu thuốc lá Điện Biên rồi gật gù:
- Không nhạc sĩ nào có sức khỏe dẻo dai và chịu khó trèo đèo lội suối như nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Chính từ đam mê âm nhạc và yêu quê hương, đất nước, con người mới có được những nhạc phẩm nổi tiếng như bài hát “Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh” đó.
Sau khoảng mười lăm phút trò chuyện tâm giao với hai người, tôi xin phép nhạc sĩ làm việc với ông Trần Quang Đạt về kết quả công việc của mình sau chuyến đi Hà Nội về. Ông Đạt rất phấn khởi khi mọi việc Ban thi công công trình giao cho tôi đã đạt được kết quả mỹ mãn. Trước lúc ra về tôi chào nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Tôi nắm chặt bàn tay nồng ấm của ông, nói:
-Chắc lần này anh cũng sẽ viết tặng anh em ở đây một bài hát chứ?
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý trả lời:
- Tất nhiên rồi chú ạ.
Tôi hỏi tiếp:
- Thế anh đã định đặt tên bài hát ấy là gì chưa?
Nhạc sĩ tỏ ra lúng túng, chưa biết trả lời tôi thế nào thì bỗng nhiên ông Đạt lớn tiếng bảo:
- Cứ đặt tên bài hát là “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ” cho nó giản dị và thân thuộc.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý vui vẻ tán thành:
- Cảm ơn anh Đạt! Tôi sẽ đặt tên bài hát như anh vừa gợi ý.
Gần ba tháng sau, một buổi tối, khoảng lúc gần tám giờ, tôi mở Đài Tiếng nói Việt Nam nghe chương trình ca nhạc, lòng đầy rạo rực khi bài hát “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ” với giọng hát của ca sĩ Thu Hiền lần đầu tiên ra mắt thính giả. Bài hát vừa ra đời nhưng chỉ sau vài ngày đã lan tỏa đi vào trái tim hàng triệu người dân trong cả nước. Đặc biệt, những chàng trai cô gái đang hăm hở thi công trên công trường cứ mỗi phút giải lao, tay còn dính đầy bụi đất vẫn ngồi sát vai nhau cùng hát “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ”. Bài hát như có một sức mạnh vô hình, cổ vũ hàng vạn người lao động với năng suất cao, góp phần làm nên một kỳ tích lịch sử: Đại công trình thủy nông Kẻ Gỗ.
Từ buổi gặp gỡ nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý với ông Trần Quang Đạt tôi càng hiểu và càng phục kế “chiêu hiền, đại sĩ” của ông. Bởi ông tập hợp được đông đảo lực lượng các nhà trí thức, các nhà khoa học, các văn nghệ sĩ, khai thác khả năng cống hiến của họ, góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung. Dường như ông Trần Quang Đạt đã thấm thía sâu sắc lời dạy của Bác Hồ: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, vận dụng nhuần nhuyễn chân lý này vào thực tiễn sôi động và phong phú, để tâm hồn người nghệ sĩ, trái tim người nghệ sĩ đồng hành cùng nhân dân.
Không chỉ có nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý mà thời điểm đấy nhiều nhà báo, nhà thơ, nhà văn đã thường xuyên có mặt trên công trường. Họ theo từng nhịp bước của những người lao động quên mình hàng ngày trên công trường, để kịp thời đưa tin bài trên báo, phát sóng trên đài. Lần nào đến công trình hồ Kẻ Gỗ tôi đều gặp gỡ với các anh em báo chí, văn nghệ sĩ Nghệ Tĩnh hồi đó như nhà thơ Minh Huệ, Trần Hữu Thung, Xuân Hoài… Trong những chuyến đi thực tế dài ngày của các văn nghệ sĩ, họ đã sáng tác được nhiều tác phẩm có giá trị. Tôi nhớ vào khoảng tháng 9 năm 1978, nhà thơ Xuân Hoài đến trụ sở Ủy ban Kế hoạch tỉnh Nghệ Tĩnh tặng tôi tập văn thơ “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ”. Rồi ít ngày sau, nhiều bài viết trong tập sách này được các báo Nhân Dân, Văn nghệ và các nghệ sĩ ngâm trong chuyên mục “Tiếng Thơ” Đài Tiếng nói Việt Nam. Nhắc lại chuyện xây dựng công trình Đại công trình thủy nông Kẻ Gỗ còn nhiều kỷ niệm lắm. Điều tôi tâm niệm nhất: Đại công trình thủy nông Kẻ Gỗ không chỉ giúp cho hàng vạn người dân huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Thạch Hà, Thị xã Hà Tĩnh đổi đời, có cơm no áo ấm mà công trình còn có giá trị tinh thần đối với nhân dân, khích lệ mọi người tiếp tục xây dựng quê hương đất nước.
(...)
Thời kỳ làm việc ở Nghệ Tĩnh là một thời kỳ rất gian khổ, vừa “chạy bữa”, vừa mò mẫm để tìm đường phát triển; tôi đã lăn lộn ngày đêm cùng đồng chí, đồng bào, trong cái khó ló cái khôn, có nhiều sáng kiến để hoàn thành nhiệm vụ, dám chịu trách nhiệm để có những quyết định bứt phá táo bạo.
Có được điều ấy, do trước sau giữ được tình cảm, tâm nguyện của mình là suốt đời vì nước vì dân, “việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm”, cái gì có lợi cho Tổ quốc, có lợi cho nhân dân đó là chân lý. Và phải biết học hỏi, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm từ thực tiễn ở cơ sở; biết dựa vào dân, dựa vào đồng bào, đồng chí. Đó cũng là bài học sâu sắc, thấm thía nhất trong cuộc đời tôi; làm nên thành công trong cuộc đời tôi”.
Trần Quốc Thại
Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh
Lịch sử một dự án
Kẻ Gỗ là tên của một làng Việt cổ ở xã Mỹ Duệ, nay thuộc xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh, cách trung tâm thành phố Hà Tĩnh khoảng 15 cây về phía Tây Nam. Làng Kẻ Gỗ xưa nằm dọc theo hai bờ sông Rào Cái (còn gọi là sông Ngàn Mọ), là dòng sông hội tụ của hàng trăm khe suối từ rừng Kẻ Gỗ đổ về.
Mùa nắng sông Rào Cái khô hạn, nhưng mùa mưa nước chảy quá nhanh, quá mạnh trở thành tai ương cho cả vùng phía Nam Hà Tĩnh. Từ những năm đầu thế kỷ XX, người Pháp đã nghĩ đến việc đắp đập chế ngự dòng sông này. Trong thời kỳ Pháp thuộc, ở xã Cẩm Thành (CẩmXuyên) đã có một cái mương nhỏ lấy nước từ Kẻ Gỗ về sản xuất. Trước cách mạng tháng Tám, người Pháp dự kiến làm xong công trình trong 20 năm, với sức chứa lòng hồ 85 triệu mét khối nước. Họ thiết kế và bắt đầu thi công một số hạng mục nhưng chiến tranh thế giới thứ 2 và sau đó chiến tranh Đông Dương bùng nổ nên công trình đã bị bỏ dở.
Theo ông Nguyễn Tiến Chương, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, năm 1957, ông là Ủy viên Thường vụ trực đảng, Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã làm việc với ông Hà Kế Tấn, Bộ trưởng Bộ thuỷ lợi về việc nghiên cứu làm hồ Kẻ Gỗ. Kết luận sau buổi làm việc, Bộ trưởng Hà Kế Tấn nói: “Chưa làm được, bởi vì chưa đủ điều kiện”, và quyết định cho Hà Tĩnh làm Thượng Tuy, những hồ chứa nước vừa và nhỏ khác. Lúc đó, ông Nguyễn Hữu Thái, Bí thư Tỉnh ủy đã có ý kiến: “Hà Tĩnh thiết tha được làm Kẻ Gỗ, vì công trình ấy mới giải quyết được hạn hán, lũ lụt vùng trong này. Khi nào làm được, mong Trung ương cho chúng tôi làm”.
Đến giữa hè năm 1957, Bác Hồ về thăm Hà Tĩnh, Bác có nhắc đến Kẻ Gỗ và yêu cầu lục hồ sơ của Pháp để nghiên cứu. Bác Hồ cũng thường xuyên quan tâm đến công tác thủy lợi, tại Hội nghị Thủy lợi toàn miền Bắc năm 1959, Bác đã nói “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước. Có đất lại có nước thì dân giàu nước mạnh. Nước có thể làm lợi nhưng cũng có thể làm hại. Nhiều nước quá thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất nước điều hòa với nhau, để nâng cao đời sốngnhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Chính từ sự quan tâm của Bác Hồ đã tiếp thêm niềm tin, nhân lên sức mạnh để cả tỉnh “tiến quân vào mặt trận thủy lợi”.
Từ cuối năm 1958 Bộ Thuỷ lợi và Kiến trúc do đồng chí Trần Đăng Khoa làm Bộ trưởng đã có chủ trương tiến hành thu thập các hồ sơ của công trình Kẻ Gỗ. Trên cơ sở tập trung thu gom những hồ sơ khảo sát đo đạc thuỷ văn của cả mạng lưới thuỷ văn Đá Bạc, Sông Trí, Hoà Duyệt và các tài liệu địa hình, địa chất, thuỷ văn cùng toàn bộ hồ sơ trong giai đoạn thiết kế sơ bộ của công trình Kẻ Gỗ được đưa về cơ quan Văn phòng Bộ để nghiên cứu sử dụng. Những hồ sơ tài liệu nói trên đã tạo điều kiện cho các cơ quan khoa học thuỷ lợi có nhiều thuận lợi, thông qua đó mà kế thừa, tiếp thu, phát triển, giảm bớt thời gian của quá trình chuẩn bị đầu tư. Tuy nhiên, sau đó do phải tập trung cho những công trình như: Thượng Tuy, Linh Cảm... và phải chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên công trình Kẻ Gỗ bị hoãn lại.
Năm 1971, ông Nguyễn Tiến Chương ra Trung ương, sau khi làm việc với Bộ thủy lợi đã đề nghị với Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ cho làm công trình Kẻ Gỗ. Ban Bí thư chấp thuận cho làm công trình này và hồ Kẻ Gỗ được đưa vào Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh năm 1972, được xếp vào danh mục các công trình trọng điểm của miền Bắc. Tại một kỳ họp của Quốc hội khoá V năm 1971, Chính phủ đã đệ trình chủ trương xin Quốc hội về việc xây dựng công trình và chính thức đưa vào danh mục trọng điểm Quốc gia, được Quốc hội biểu quyết nhất trí. Từ đó Bộ thuỷ lợi trong vai trò chủ dự án công trình đã khẩn trương hoàn thành các hồ sơ kinh tế - kỹ thuật theo từng giai đoạn để trình lên Chính phủ phê duyệt dự án đầu tư. Và ngày 23/12/1974, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang bước vào giai đoạn quyết định, tập trung cho trận quyết chiến cuối cùng giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Chính phủ đã ký Quyết định số 318/TTg phê duyệt nhiệm vụ xây dựng hồ chứa nước Kẻ Gỗ ở xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Vẫn theo ông Nguyễn Tiến Chương, xác định công trình Kẻ Gỗ trước sau gì thì cũng phải làm, tỉnh đã chủ động bỏ vốn địa phương ra làm các công tác chuẩn bị như: sửa cầu đường, mắc dây điện thoại, nuôi cá, trồng rau, chuẩn bị thực phẩm cho công trường và tổ chức lao động thủ công làm trước phần kênh mương.
Khi chiến tranh chống Mỹ kết thúc, đất nước được hòa bình thống nhất, công trình này mới được các nhà khoa học thủy lợi Việt Nam thiết kế và được Nhà nước chính thức cho thi công lấy tên “Công trình đại thủy nông Kẻ Gỗ”. Tháng 11/1975, Tổng Bí thư Lê Duẩn vào làm việc với hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh và được nghe báo cáo về dự án này. Đồng chí Tổng Bí thư kết lụận: Bộ thủy lợi phụ trách đầu mối, địa phựơng làm kênh mương, rút ngắn thời gian làm việc trong vòng 3 năm. Ngày 26/3/1976 được chọn làm ngày khởi công công trình Đại thủy nông Kẻ Gỗ và sau ba năm tỉnh Nghệ Tĩnh phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân đã làm nên một kỳ tích vĩ đại. Ngày 26/3/1979 công trình khánh thành được đưa vào khai thác sử dụng và đã vực dậy những vùng quê lam lũ đói nghèo vì thiếu nước, biến vùng đất Cẩm Xuyên, Thạch Hà, thành phố Hà Tĩnh... thành những vựa thóc khổng lồ, thúc đẩy nền nông nghiệp Hà Tĩnh tăng trưởng.
“Xây dựng thành công công trình thủy nông Kẻ Gỗ đã thể hiện sự khát khao, mong muốn cháy bỏng của Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh nói riêng và tỉnh Nghệ Tĩnh nói chung; thể hiện sức mạnh “Dời non lấp biển” của quần chúng cách mạng. Phát huy sức mạnh tổng hợp của 4 cấp từ Trung ương đến cơ sở, làm đồng bộ kênh mương từ đầu mối đến đồng ruộng, sớm đưa công trình vào phục vụ sản xuất. Với 345 triệu mét khối nước, Kẻ Gỗ như là cái “biển nhỏ” nằm phía Tây của huyện Cẩm Xuyên, có hệ thống kênh mương dẫn nước toả đi khắp vùng, tạo nên khí hậu mát mẻ, dễ chịu. Hệ thống thuỷ nông Kẻ Gỗ đă làm biến đổi 2 huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên từ khô cằn, bạc màu trở thành nơi chuyên canh lúa lớn của tỉnh; cung cấp nước cho Thị xã Hà Tĩnh, ngành công nghiệp”, ông Nguyễn Tiến Chương viết.
Do tính chất hết sức quan trọng, dự án hồ Kẻ Gỗ đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan Trung ương. Ngày 1//1/1978, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh đã tổ chức trọng thể lễ đón nhận Lẵng hoa của Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng nhân dân, công nhân và cán bộ tham gia xây dựng hệ thống thủy nông Kẻ Gỗ. Các đồng chí Trần Quang Đạt, Nguyễn Văn Giản, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, đại diện huyện ủy, Ủy ban nhân dân các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà và đông đảo cán bộ, công nhân, dân công đang thi công công trình Kẻ Gỗ đã tới dự. Trong dịp này, ông Nguyễn Thanh Bình, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi đã đọc một bài diễn văn quan trọng như sau:
“Hôm nay, trong niềm hân hoan của cả nước kết thúc thắng lợi một năm đồng khởi thi đua lao động xã hội chủ nghĩa - năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, và chào mừng thành công tốt đẹp của kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa sáu, tôi rất phấn khởi thay mặt Chủ tịch Tôn Đức Thắng trao lẵng hoa của Chủ tịch nhân dịp năm mới cho cán bộ, công nhân, nông dân tham gia xây dựng hệ thống thủy nông Kẻ Gỗ bao gồm công trình đầu mối và toàn bộ hệ thống kênh mương. Đây là một vinh dự lớn mà Bác Tôn dành cho nhân dân, cán bộ và quân đội tỉnh Nghệ Tĩnh. Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, tôi nhiệt liệt hoan nghênh các tầng lớp nhân dân, quân đội và cán bộ các ngành, các cấp đã cần cù, dũng cảm, sáng tạo trong lao động dành được thắng lợi xuất sắc trên công trường Kẻ Gỗ hai năm qua. Các đồng chí thân mến, Ngày 26/3/1976, tôi đã cùng các đồng chí và đồng bào làm lễ khởi công xây dựng hệ thống thủy nông Kẻ Gỗ. Chúng ta đã hứa với nhau:
- Quyết làm cho công trường Kẻ Gỗ trở thành mẫu mực về sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, các địa phương, giữa công nhân, nông dân và quân đội, thi đua quyết chiến, quyết thắng thiên nhiên.
- Quyết làm cho phong trào thi đua lao động sản xuất ở Kẻ Gỗ thành ngòi nổ lớn kẻ gỗ đã trở thành một điển hình tiên tiến làm hạt nhân cho phong trào lao động sản xuất của nhân dân toàn tỉnh truyền khí thế và phong cách chiến đấu ra toàn tỉnh và trên mọi lĩnh vực công tác.
- Quyết tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch, dành chiến thắng oanh liệt trên mặt trận Kẻ Gỗ đáp ứng nguyện vọng nghìn đời của đồng bào hai huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên và thị xã Hà Tĩnh. Hai năm qua, dưới sự chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, một phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng đã dấy lên khắp nơi trong tỉnh mà Kẻ Gỗ là một ngòi nổ đã truyền lan đến Vách Bắc, Sông Nghèn, Đô Lương... đến phong trào khai hoang vỡ hóa, trồng màu, làm bèo dâu... với không khí hào hứng của ngày hội lớn. Chỉ trong một thời gian tương đối ngắn, với sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, kể cả quân đội, dưới sự chỉ đạo thống nhất của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh đã vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn, xây dựng nhiều công trình thủy lợi: tỉnh có công trường tỉnh, huyện có công trường huyện, vừa làm vừa nhân sức mạnh của mình lên. Kẻ Gỗ đã trở thành một điển hình tiên tiến làm hạt nhân cho phong trào lao động sản xuất của nhân dân toàn tỉnh”.
Lực lượng công nhân trong Lễ khởi công hồ Kẻ Gỗ
Vẫn theo Bộ trưởng Nguyễn Thanh Bình, tiếng vang của Kẻ Gỗ đã vượt ra khỏi phạm vi một tỉnh, trở thành niềm tự hào chung của nhân dân cả nước. Từ đây, có thể rút ra nhiều bài học quý. Đó là bài học về sự kết hợp chặt chẽ giữa trung ương và địa phương, bốn cấp cùng làm, về sự điều hành lao động trên phạm vi toàn tỉnh, về kết hợp cơ giới với thủ công xây dựng đồng bộ dứt điểm từ đầu mối đến kênh mương, rút ngắn thời gian thi công, đưa từng phần công trình vào phục vụ sản xuất.
“Rõ ràng phong trào làm thi đua thủy lợi của Nghệ Tĩnh mà Kẻ Gỗ là tiêu biểu không chỉ nói lên tinh thần cách mạng tiến công và sức mạnh của một tỉnh mới mà còn thể hiện quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các đơn vị, mối quan hệ giữa trung ương và địa phương thể hiện phương thức làm ăn mới mà nhiều nơi thường nói là “phong cách Kẻ Gỗ”. Đó là những kinh nghiệm rất hay, rất phong phú về nhiều mặt, có tác dụng lâu dài, cần được tổng kết một cách nghiêm túc. Bởi vì nó không chỉ bổ ích đối với các ngành, các phong trào trong tỉnh, mà còn là món quà quý gửi tặng các địa phương trong cả nước trên đường đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Phát huy truyền thống quật khởi Xô Viết Nghệ Tĩnh năm xưa, với Kẻ Gỗ, tỉnh Nghệ Tĩnh càng làm vẻ vang quê hương Bác Hồ vĩ đại. Cùng nhân dân cả nước, nhân dân và cán bộ Nghệ Tĩnh đang biến di chúc Bác Hồ thành hiện thực vô cùng tươi đẹp ngay trên quê hương Bác kính yêu”, ông nhấn mạnh.
Hiệu quả to lớn từ dự án
Có thể nói, đại dự án thủy nông Kẻ Gỗ đã mang lại những lợi ích kinh tế vô cùng to lớn cho Hà Tĩnh. Sau 3 năm triển khai thi công (1976 - 1979), hồ Kẻ Gỗ đã hoàn thành với diện tích lưu vực 223km, dung tích thiết kế 345 triệu m3, nước từ hồ theo các tuyến kênh chính có chiều dài 250km tưới cho gần 15.000 ha lúa, màu, thủy sản và cung ứng nước sinh hoạt cho Cẩm Xuyên, Thạch Hà và Thành phố Hà Tĩnh. Cùng với chủ trương, chính sách của tỉnh đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn, năng suất lúa ở các địa phương này tăng vọt, nếu trước đây khi chưa có công trình thuỷ lợi, năng suất lúa bình quân chỉ đạt từ 10 - 12tạ/ha thì hiện nay con số này tăng lên từ 4 - 4,5 lần, góp phần ổn định lương thực, từng bước hình thành các vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung, cánh đồng mẫu lớn, nâng cao thu nhập cho người dân. Trải qua gần nửa thế kỷ, công trình Đại thủy nông Kẻ Gỗ đã hứng chịu nhiều tác động bất lợi của thiên tai như hạn hán, lũ lụt nhưng vẫn vững vàng, hoàn thành nhiệm vụ cung ứng nước cho sản xuất và xả lũ an toàn cho vùng hạ du. Đại thủy nông Kẻ Gỗ ra đời đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng đối với sản xuất của Hà Tĩnh, không chỉ mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho nhân dân vùng hưởng lợi, mà còn góp phần quan trọng cải tạo môi trường sinh thái, cảnh quan thiên nhiên của cả một vùng rộng lớn, đã trở thành một Khu bảo tồn thiên nhiên có giá trị, một điểm du lịch sinh thái lý tưởng với hệ thống rừng núi bao phủ với nhiều động, thực vật quý hiếm.
Theo ông Đặng Quốc Cương, Nguyên Bí thư huyện ủy Cẩm Xuyên, vùng đất Cẩm Xuyên trước đây vùng đất “đồng khô, cỏ cháy”, người dân Cẩm Xuyên từ bao đời còng lưng trên vạt ruộng chỉ có một “hạnh phúc đơn sơ ước mơ nho nhỏ” là cơm no, áo ấm. Chỉ đến sau khi đại thủy nông Kẻ Gỗ ra đời, đất Cẩm Xuyên mới thực sự hồi sinh, người dân mới được ngẩng mặt lên vui cười khi cây lúa không phụ công người. Chính vì thế Đảng bộ và nhân dân Cẩm Xuyên chúng tôi vô cùng biết ơn những người đã làm nên kỳ tích này.
“Tôi có thể khẳng định rằng: không có cuộc cách mạng lớn như vậy thì không có hiện hữu một sắc thái nông thôn đẹp giàu của quê tôi như hôm nay. Đại thủy nông Kẻ Gỗ là tài sản vô giá của huyện Cẩm Xuyên chúng tôi và cũng là tài sản vô giá của nền kinh tế Hà Tĩnh. Kẻ Gỗ là mốc son đầu tiên của công cuộc đổi mới là hiện thân ý chí tiến công của Đảng và sức mạnh thánh thần của nhân dân… Từ khi có nước ngọt của hồ Kẻ Gỗ nó không chỉ là điểm tựa lớn để nhân dân Cẩm Xuyên chúng tôi an tâm phấn khởi sản xuất mà nó còn là động lực để thay đổi tầm nhìn, tầm nghĩ của người dân từ chỗ làm ăn manh mún lạc hậu nay đã biết mạnh dạn đầu tư làm giàu. Tôi chỉ đơn cử một hình ảnh thuở xưa nhắc chuyện máy cày máy bừa là hình ảnh các nước tiên tiến về kỹ thuật trên thế giới, với Việt Nam chỉ là chuyện xa lạ đối với đồng đất Cẩm Xuyên lại càng xa lạ hơn. Vậy mà sau ba thập kỷ đổi mới, đồng đất Cẩm Xuyên đã rộn ràng tiếng cày máy bừa, máy cắt, máy gặt. Nhiều người dân khi ruộng lúa chín vàng đã đưa máy móc đến giúp người nông dân, hạt thóc được thu hoạch và đóng thành bì ngay từ chân ruộng. Chính sử dụng một nền cơ giới “trâu đỏ thay dần trâu đen” đã giải phóng đôi vai, giải phóng sức người, tiết kiệm được với thời gian, lại tạo ra năng suất và sản lượng lớn, sớm đưa Cẩm Xuyên đã vận hành một nền kinh tế tri thức. “Trông lại ngày xưa và trông tới mai sau”, chúng tôi lại càng hiểu rằng quê hương đi lên từ tiềm năng của đất và sự sinh trưởng của lúa, khi yếu tố cơ bản nhất trong 4 khâu “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” đã được giải quyết triệt để”, ông viết.
Cùng quan điểm này, ông Trần Việt Hà, Nguyên Chủ tịch UBND huyện Thạch Hà (nay là Bí thư Thành ủy Hà Tĩnh) cho rằng: “Nếu nhân dân Thạch Hà không biết ơn những người đi xây hồ Kẽ Gỗ là có lỗi rất lớn với lịch sử”. “Tôi tin chắc rằng lớp trẻ của Thạch Hà hôm nay đang phơi phới cắp sách tới trường, chắc không thể hiểu nổi nhân dân Thạch Hà bốn thập kỷ trước đói khổ nghèo nàn và lạc hậu đến mức nào? Nhắc đến chuyện “nhà tranh, cột tre, vách đất”, nhắc đến chuyện mùa hè nửa đêm còn xếp hàng bên giếng làng chắt từng gầu nước, chắc lớp trẻ sẽ cho “từ nước bạc cơm vàng” Thạch Hà vươn dậy tầm vóc mới”, ông viết.
Vẫn theo ông Hà, từ khi có nước hồ Kẻ Gỗ đã tạo nên sức chuyển biến lớn của nhân dân Thạch Hà. Nguồn nước Kẻ Gỗ đã thắp sáng màu xanh mênh mông đồng lúa, đồng khoai, các xã từ thượng kênh đến hạ kênh. Nhân dân Thạch Hà đã không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm nhanh, Thạch Hà trở thành một huyện nông nghiệp phát triển bền vững. Cùng với những thay đổi lớn về phương thức làm ăn, cơ chế, chính sách huyện đã có nhiều cơ chế chính sách thông thoáng, khuyến khích nhân dân làm giàu, tạo nên nhiều sản phẩm nông nghiệp phong phú. Người dân Thạch Hà đã có niềm tin từ chính mình. Trên mặt trận nông nghiệp huyện Thạch Hà đã biết ứng dựng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng cơ giới vào sản xuất, đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, xóa bỏ được lối làm ăn manh mún lạc hậu. Thành công của Kẻ Gỗ không chỉ là thành quả về lợi ích kinh tế, nó còn là một bài học sâu sắc về tư tưởng tiến công, về tinh thần cách mạng.
Theo ông Lê Hồng Sơn, Nguyên Giám đốc Công ty TNHH MTV Thủy lợi Nam Hà Tĩnh, Công trình thuỷ lợi Kẻ Gỗ đã thực sự đổi đời cho cả một vùng quê rộng lớn. “Tất cả những gì mà ta đang có hôm nay ở Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Thành phố Hà Tĩnh, đều có sự đóng góp của dòng nước Kẻ Gỗ. Từ con đường làng rộng mở, mái nhà ngói đỏ tươi, trường học cao tầng sớm chiều trẻ thơ rộn rã, đến vườn cây, ao cá, khí mát trong lành. Sự trù phú, ấm no thanh bình dồi dào sức trẻ, tất cả đều nằm trong sự vận động của quy luật tự nhiên, nhưng không thể không nói đến do có sự ảnh hưởng từ hiệu quả của công trình Kẻ Gỗ”, ông Sơn đánh giá.
Nguyễn Lê
Quá trình xây dựng hồ Kẻ Gỗ đã được xác lập qua các văn bản pháp lý quan trọng qua từng thời kỳ. Dưới đây xin điểm lại một số mốc quan trọng nhất.
Quyết định quan trọng nhất để mở đường cho công trình là Quyết định số 318.Ttg của Thủ tướng Chính phủ do Phó Thủ tướng Hoàng Anh ký thay, qua đó phê chuẩn nhiệm vụ thiết kế hồ chứa nước Kẻ Gỗ tỉnh Hà Tĩnh. Quyết định này được ký căn cứ vào Tờ trình số 364-TL/KH ngày 23 tháng 2 năm 1974 và tờ trình bổ sung số 269-TL/KH ngày 26 tháng 11 năm 1974 của Bộ Thủy Lợi; Tờ trình số 1044-UB/HT ngày 05 tháng 12 năm 1972 và công văn số 380-UB/KTCB ngày 21 tháng 3 năm 1974 của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Tĩnh xin xây dựng công trình này và Tờ trình số 1235-UB/VP ngày 02 tháng 10 năm 1974 của Ủy ban kế hoạch Nhà nước về việc trình duyệt nhiệm vụ thiết kế hồ chứa nước Kẻ Gỗ tỉnh Hà Tĩnh.
Theo quyết định này, hồ chứa nước Kẻ Gỗ được xây dựng trên sông Rào Cái thuộc địa phận xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, Tỉnh Hà Tĩnh. Nhiệm vụ công trình là tưới ruộng 21.136 ha đủ nước sản xuất 2 vụ của hai huyện Cẩm Xuyên và Thạch Hà (Cẩm Xuyên 17 xã, Thạch Hà 20 xã) chống lũ quét, chống xói mòn cho diện tích trên. Đồng thời, cung cấp nước phục vụ công nghiệp và sinh hoạt trong vùng 1,6m3/s và phát điện 2.300 KW trong mùa tưới.
Các hạng mục công trình ở phần đầu mối gồm có: một đập chính ngăn sông bằng đất; 3 đập phụ bằng đất; một công trình xả lũ bằng bêtông cốt thép có lưu lượng xả ứng với tần suất 0,5% là 1.540 m3/gy; một cống lấy nước bằng bêtông cốt thép có lưu lượng lớn nhất 28,3 m3/gy và nhà máy thủy điện đặt sau cống lấy nước.
Phần kênh mương gồm cóHệ thống kênh và công trình trên kênh đê dẫn nước phục vụ nông nghiệp từ sau cống lấy nước đến khoảnh ruộng và Hệ thống kênh dẫn nước phục vụ nông nghiệp và sinh hoạt được chuyển bằng đường ống riêng do Bộ xây dựng nghiên cứu, đầu tư và có kế hoạch xây dựng đảm bảo sau khi hồ Kẻ Gỗ giữ nước thì đường ống này cũng đưa vào phục vụ được.
Quyết định số 318.TTg của Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn nhiệm vụ thiết kế hồ chứa nước Kẻ Gỗ
Về vốn đầu tư xây dựng, toàn bộ cho hệ thống công trình này ước tính khoảng: 100.000.000 đồng; trong đó xây lắp khoảng 82.000.000 đồng. Về thời gian xây dựng, công trình chuẩn bị từ đầu năm 1975 và hoàn thành toàn bộ vào năm 1981. Khi xây dựng sẽ thi công đồng bộ từng tuyến kênh và khai thác từng phần. Đầu năm 1978 sẽ tưới 5.000 ha thuộc nhánh kênh N1 và các năm sau sẽ khai thác tăng dần lên.
Vẫn theo quyết định này, hồ chứa nước Kẻ Gỗ là một công trình thủy lợi loại lớn có lợi ích tổng hợp, yêu cầu sản xuất trong vùng cấp bách. Để xây dựng công trình này được tốt và chóng đưa công trình vào phục vụ sản xuất theo kế hoạch; Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Thủy lợi là cơ quan chủ quản công trình có nhiệm vụ thiết kế và xét duyệt đồ án kỹ thuật toàn bộ công trình; tổ chức toàn bộ việc xây dựng công trình từ đầu mối đến khoảnh ruộng; bảo đảm hoàn thành đúng nội dung và thời gian quy định trong quyết định này. Đồng thời, Bộ Thủy lợi phải quản lý số kinh phí được duyệt trong nhiệm vụ thiết kế và số kinh phí, vật tư, thiết bị lao động theo kế hoạch hàng năm, hàng tháng; quản lý toàn bộ về mặt kỹ thuật các công trình từ đầu mối kênh mương đến khoảnh ruộng và ký hợp đồng với Bộ Điện và Than làm đường dây dẫn điện 3 từ thị xã Hà Tĩnh về khu vực đầu mối.
Thủ tướng giao Ủy ban hành chính Hà Tĩnh có kế hoạch tổ chức xây dựng toàn bộ hệ thống kênh mương từ kênh chính đến khoãnh ruộng cho khớp với tiến độ thi công đầu mối để phát huy hiệu quả kịp thời khi hồ đá giữ nước, cung cấp đủ số lao động thủ công để thi công phần đầu mối; xây dựng các công trình phục vụ thi công, bảo đảm trật tự trị an, cung cấp vật chất và tinh thần cho công nhân trong thời gian thi công, cùng với Bộ Thủy lợi có kế hoạch đền bù và ổn định sản xuất cho nhân dân những nơi bị ngập; tổ chức khai thác vật liệu (cát, đá, sỏi) để cung cấp cho việc xây dựng công trình theo tiến độ.
Các cơ quan khác cũng được giao các nhiệm vụ tương ứng gồm Ủy ban Nông nghiệp trung ương, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Vật tư và Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng.
Từ quyết định trên, ngày 25/9/1978, UBND tỉnh Nghệ Tĩnh căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban các cấp ban hành ngày 10-11-1962; Căn cứ Thông tư số 21-TT/TL ngày 20 tháng 1 năm 1978 của Bộ Thủy lợi về tổ chức Công ty thủy nông và xét đề nghị của ông Trưởng ty Thủy lợi và ông Trưởng ban tổ chức Ủy ban Nhân dân tỉnh, đã ban hành Quyết định về việc thành lập Công ty quản lý thủy nông Kẻ Gỗ trực thuộc Ty Thủy lợi Nghệ Tĩnh. Theo đó. Công ty là đơn vị kinh tế cơ sở hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính và được quản lý theo chế độ Thủ trưởng có con dấu riêng, và tài khoản riêng.
Nhiệm vụ Công ty được qui định như sau: (i) Quản lý công trình, trực tiếp quản lý tất cả các công trình trong hệ thống từ đầu mối đến kênh mương, có biện pháp và kế hoạch bảo vệ tài sản, chỉ đạo việc đóng mở các công trình thực hiện vận hành đúng quy trình quy phạm kỹ thuật. (ii) Quản lý nước, nắm chắc tình hình yêu cầu sản xuất nông nghiệp từng vụ, từng năm, tình hình thủy văn khí tượng, có kế hoạch mở nước, phân phối và điều hòa nước hợp lý kịp thời đến từng khu vực của hệ thống theo kế hoạch sản xuất nông nghiệp. (iii) Quản lý kinh doanh, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong công tác quản lý khai thác bảo vệ hệ thống thủy nông trước mắt thực hiện quản lý kinh tế theo chế độ tài vụ, gắn thu bù chi ngân sách Nhà nước cấp phát phần chênh lệch “theo Quyết định số 16-QĐ/LB ngày 20 tháng 10 năm 1972 của Liên bộ Thủy lợi – Tài chính”.
Vẫn theo quyết định này, Tổ chức bộ máy Công ty gồm có 1 chủ nhiệm, 1 phó chủ nhiệm, 1 kế toán trưởng do ông Trưởng ty Thủy lợi đề nghị Ủy ban Nhân dân tỉnh ra quyết định bổ nhiệm. Các bộ môn giúp việc như quản lý công trình, quản lý nước, kế hoạch về tài vụ, kế toán tài vụ, tổ chức lao động, tiền lương và hành chính quản trị cùng các đội quản lý công trình… giao cho ông Trưởng ty Thủy lợi căn cứ vào Thông tư của Bộ Thủy lợi theo xếp hạng Công ty để quy định bộ máy cụ thể cho Công ty hoạch động, tỷ lệ gián tiếp của Công ty không quá 12% (mười hai phần trăm). Toàn bộ biên chế và quỹ lương công ty thuộc khu vực kinh doanh do Ty Thủy lợi đề nghị qua Ủy ban Kế hoạch tỉnh tổng hợp cân đối trình Ủy ban Nhân dân tỉnh xét duyệt.
Đối với Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ hiện nay, văn bản pháp lý quan trọng nhất chính là Quyết định thành lập cơ quan này được Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Nguyễn Văn Mạo ký ngày 12/6/1997. Theo quyết định này, Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ Hà Tĩnh được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Ban quản lý rừng phòng hộ Kẻ Gỗ. Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ Hà Tĩnh là đơn vị sự nghiệp, có tư cách pháp nhân có con dấu và tài khoản riêng. Được Nhà nước cấp ngân sách và được xin vốn tài trợ các dự án của tổ chức Quốc tế (nếu có) để hoạt động về bảo tồn thiên nhiên và quản lý phòng hộ Kẻ Gỗ. Ban trực thộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn và trụ sở Ban đặt tại xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh.
Ban có nhiệm vụ quản lý và bảo vệ 24.708 ha rừng hiện có và các loại động vật, thực vật quý hiếm; khôi phục lại số diện tích rừng bị suy giảm, nhằm góp phần bảo tồn sinh học và phòng hộ công trình thuỷ lợi Kẻ Gỗ; bảo tồn gen động vật, thực vật quí hiếm; tổ chức lại sản xuất, đời sống kinh tế xã hội trong vùng theo hướng nông lâm kết hợp và phục vụ yêu cầu quản lý bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trong vùng; tạo tiền đề nghiên cứu khoa học về bảo tồn thiên nhiên, và phát triển du lịch trong vùng.
Ngoài Ban lãnh đạo, Ban có các đơn vị giúp việc gồm Phòng tổ chức, hành chính, kế toán; Phòng quản lý khoa học kỷ thuật bảo tồn; Đội bảo vệ cơ động; Trạm bảo vệ số 1 (đập A Kẻ Gỗ); Trạm bảo vệ số 2 (Cẩm Thịnh, Cẩm Xuyên); Trạm bảo vệ số 3 (tuyến đường 22 Kỳ Thượng Kỳ Anh); Trạm bảo vệ số 4 (xã Cẩm Mỹ); Trạm bảo vệ số 5 Rào bội (tuyến đường 21 thuộc địa phận Hương Trạch Hương Khê). Biên chế của Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ được Uỷ ban nhân dân tỉnh giao trong tổng biên chế sự nghiệp của sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
BBT
Hồ Kẻ Gỗ, nằm trên địa phận Hà Tĩnh, không chỉ là một công trình thủy lợi quan trọng mà còn lưu giữ trong lòng mình những dấu tích bi tráng của một thời chiến tranh khốc liệt. Ít ai biết rằng, nơi đây từng là chiến trường ác liệt, nơi bom đạn B52 trút xuống, nơi những người lính, thanh niên xung phong đã đổ máu để xây dựng và bảo vệ tuyến đường huyết mạch thông xe vào tiền tuyến.
Giờ đây, ngót nửa thế kỷ đã trôi qua, dưới lòng hồ Kẻ Gỗ vẫn còn đó những di tích, những hài cốt của các chiến sĩ chưa xác định thông tin, của những con người đã làm nên huyền thoại.
Vóc dáng một cung đường huyền thoại
Ngã ba Thình Thình, nơi giao nhau giữa đường chiến lược 21 và đường 22, từng là một điểm trọng yếu trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh. Không có tài liệu chính thức nào ghi chép về địa danh này, nhưng trong dân gian, những câu chuyện vẫn còn được truyền miệng như một huyền thoại.
Tương truyền, trong phong trào Cần vương, cụ Nguyễn Hữu Lương (quê ở xã Thạch Thượng, Thạch Hà) là tướng quân của nghĩa quân Phan Đình Phùng. Trong một trận đánh, ông bị giặc Pháp bắt, giam ở một nhà lao thuộc Quảng Bình. Tướng quân cùng một số quân sĩ vượt ngục, men theo đường mòn dọc mép sông Ngàn Sâu bên sườn đông dãy Trà Sơn về quê.
Dọc đường đi, ông đã bị cọp vồ. Các quân sĩ đem thi hài ông về quê an táng, trên đường đi họ đã dừng chân nghỉ qua đêm tại một ngã ba nằm lọt giữa hai vách núi dựng đứng. Buổi sáng thức giấc, mọi người bàng hoàng vì chỗ đặt thi hài tướng quân giờ đây đã thành một đụn đất cao chất ngất. Các quân sĩ bụng bảo dạ rằng tướng quân đã chọn nơi đắc địa để yên nghỉ nên mọi người thắp hương lên gò đất cầu nguyện cho linh hồn ông được siêu thoát nơi đại ngàn.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, cách đây ít năm, con cháu tướng quân nay thành danh tri ân tiên tổ đã nhờ các nhà ngoại cảm tìm được đúng vị trí cụ yên nghỉ, xây cất đền thờ, tượng đài, lăng mộ uy nghi, tạo nên một không gian thật lãng mạn bên khe suối giữa núi rừng.
Dấu tích đường băng sân bay Libi tại lòng hồ Kẻ Gỗ
Nếu ai đó đứng tại khu mộ tướng quân Nguyễn Hữu Lương phát ra một tiếng động nhỏ, hai bờ vách núi sẽ vọng âm trở lại thình thình bên tai. Có lẽ vì thế, những người dân địa phương mới đặt tên cho ngã ba đường mòn này là ngã ba Thình Thình, con suối chạy quanh khu mộ tướng quân là suối Thình Thình.
Con đường mòn năm xưa những nghĩa sĩ Cần vương từng vượt ngục từ Quảng Bình về Hà Tĩnh ngót một thế kỷ sau được Bộ Giao thông vận tải chọn mở đường chiến lược mang tên 21. Tuyến đường bắt nguồn cách ngã ba Khe Giao khoảng 1 km vào đến Tân Ấp, đường 21 chạy gần như song song với đường 15 có từ thời thuộc Pháp.
Đầu năm 1965, các tuyến đường ngày đêm bị đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt với mưu đồ cắt đứt quốc lộ 1A tại Đèo Ngang (Hà Tĩnh) và vùng Địa Lợi - Chu Lễ trên đường 15A. Trước tình hình đó, Bộ Giao thông Vận tải chủ trương giành thế chủ động trong vận tải, bằng cách mở thêm các tuyến đường song song để tránh các trọng điểm đánh phá của địch, đồng thời đảm bảo chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam. Cuối năm 1966, Bộ Giao thông Vận tải quyết định mở đường 22.
Giữa năm 1965, một lực lượng lớn gồm cán bộ, bộ đội công binh, dân công hỏa tuyến từ các huyện trong tỉnh như Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (Hà Tĩnh), đội thanh niên xung phong (TNXP) 53, TNXP các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Nghệ An, Công ty Đường bộ 4 - Bộ GTVT, Cục Công trình 1, Xí nghiệp gạch ngói Cẩm Thành… đã được huy động, dồn sức mở con đường huyết mạch mang biệt hiệu đường tỉnh 22.
Trên cung đường này, ngã ba Thình Thình (nay thuộc xã Thạch Điền, Thạch Hà), cách Khe Giao hai chục km về phía Đông Nam – là nơi giao nhau của đường chiến lược 21 và đường 22. Đường 22 có chiều dài khoảng 65 km được mở sau khi đường 21 đã khai thông, đường khởi phát từ ngã ba Thình Thình chạy qua hồ Kẻ Gỗ vào đến Quảng Bình nhằm phá thế độc tuyến cho đường số 1.
“Con đường máu” trong lòng hồ Kẻ Gỗ
Những tư liệu lịch sử cho thấy, để hoàn thành tuyến đường 22 vào tháng 10 năm 1965, một lực lượng lớn gồm cán bộ, bộ đội công binh, dân công hỏa tuyến từ các huyện trong tỉnh như Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (Hà Tĩnh), đội thanh niên xung phong (TNXP) 53, TNXP các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Nghệ An, Công ty Đường bộ 4 - Bộ GTVT, Cục Công trình 1, Xí nghiệp gạch ngói Cẩm Thành… đã được huy động, dồn sức mở con đường huyết mạch mang biệt hiệu đường tỉnh 22.
Đến cuối 1970 đầu năm 1971, tuyến đường chiến lược 22 cơ bản hoàn thành thông suốt, đảm bảo cho hàng ngàn lượt xe vận tải, quân đội của ta vào tiền tuyến an toàn. Đường có điểm bắt đầu từ kilômét 18+600 tại Ngã ba Thình Thình (giao nhau với đường chiến lược 21), thuộc xã Thạch Điền, huyện Thạch Hà đi vòng qua vùng hồ Kẻ Gỗ (xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên) rồi chạy qua các xã Kỳ Tây, Kỳ Lâm, Kỳ Sơn, Kỳ Thượng, Kỳ Lạc (huyện Kỳ Anh), sau đó kết thúc tại huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Một trong những dấu ấn đặc biệt trên con đường này chính là sân bay dã chiến Libi. Nhận thấy khu vực phía Tây Nam Hà Tĩnh có nhiều khu đất bằng phẳng nằm dưới chân núi, các lực lượng quốc phòng đã chọn nơi đây làm sân bay dã chiến phục vụ chiến tranh. Tuy nhiên, vào cuối năm 1972, sân bay bị phát hiện và hứng chịu những trận rải bom hủy diệt của B52 Mỹ. Chỉ trong một đêm, hàng trăm chiến sĩ, thanh niên xung phong đã hy sinh.
Trong hồi ký của ông Mai Văn Khải, nguyên Chủ tịch Hội Cựu Thanh niên xung phong Hà Nam, có đoạn ghi lại trận đánh ngày 2/9/1968: “Mới 9 giờ sáng, một đàn máy bay Avazi lượn quanh khu vực Đá Bạc, phát hiện có Tiểu đoàn Tên lửa của ta đang hành quân về bảo vệ đường, cầu. Chúng lập tức oanh tạc dữ dội. Nhiều khẩu pháo bị phá hủy, nhiều pháo thủ hy sinh. Đơn vị TNXP C362, C358, C353 cùng nhân dân địa phương đã không ngại hiểm nguy, lao vào cứu thương binh, vận chuyển thi thể liệt sĩ. Riêng trận đó, gần 60 người đã hy sinh, nhiều người khác bị thương”.
Bà Nguyễn Thị Đàn từng là thanh niên xung phong thuộc Công ty Đường bộ 4 của Bộ GTVT (trú xã Cẩm Bình, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) tham gia mở đường, xây dựng sân bay Libi trên tuyến đường 22 này hiện còn sinh sống tại tại Cẩm Bình, Cẩm Xuyên - chính ngày đó bà bị B52 của Mỹ cướp đi một cánh tay nhớ lại: “Thời gian đó tôi được điều động vào làm tại sân bay Libi, ban ngày thì gánh cây mua cây sim xuống ngụy trang sân bay, ban đêm thì mang đi cất để các đơn vị thi công lu lèn.
Khoảng 3h sáng 7/1/1973 khi đang nghỉ tại lán sau buổi làm việc, nghe tiếng bom nổ và tiếng hô hoán, tôi vừa kịp vén màn bước xuống thì bỗng nghe buốt trong người. Nhìn xuống thì một cánh tay đã bị bom cắt lìa. Không kịp kêu lên một tiếng, tôi vội trườn xuống hầm bởi loạt B52 đã xé tan căn lán mà tôi và đồng đội đang trú.
Ngất đi vì đau đớn và tiếng bom B52 nổ bên tai, sáng ngày hôm sau tôi mới tỉnh dậy sau khi được sơ cứu. Trận đó, đồng đội hy sinh nhiều quá. Người xếp nằm thành hàng dễ có đến cả trăm, đó là chưa kể có những đồng chí không còn tìm thấy xác”.
Theo các nhân chứng sống kể lại, trận bom vào rạng sáng ngày 7/1/1973 chính là trận oanh tạc cuối cùng của quân Mỹ tại khu vực này. Và đó có lẽ là một trong những cuộc tập kích cuối cùng trên đất Việt Nam, bởi vì chỉ hai mươi ngày sau, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết và từ thời điểm đó, “chiến trường” thực sự chỉ còn diễn ra trên đất miền Nam.
Di sản còn lại
Dù đã qua nhiều thập kỷ, nhưng những câu chuyện về đường 22 và sân bay Libi vẫn còn đó, như một ký ức bi tráng về những ngày tháng ác liệt. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là các tài liệu chính thức về tuyến đường này vẫn còn hạn chế. Những gì còn sót lại chủ yếu là lời kể của các nhân chứng, những ký ức chưa được ghi chép đầy đủ.
Ngày nay, lòng hồ Kẻ Gỗ phẳng lặng che phủ lên những trận địa xưa, nhưng mỗi người dân nơi đây vẫn nhớ về một thời kỳ hào hùng của cha ông. Những ngọn núi, những con suối, những cung đường len lỏi giữa đại ngàn vẫn mang trong mình những câu chuyện huyền thoại.
Những câu chuyện huyền thoại về con đường 22, về sân bay LiBi, về ngã ba Thình Thình sẽ mãi là ký ức hào hùng, nhắc nhở thế hệ sau về sự hy sinh vĩ đại của cha ông vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Và mỗi khi tiếng gió rít qua những khe đá của ngã ba Thình Thình, người ta lại tưởng như nghe thấy nhịp thình thình của lịch sử vọng về.
Văn Tuân
Trang 3 / 7