Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Tĩnh được xem là “hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam” và là “tiền tuyến của hậu phương lớn miền Bắc”, là điểm trung chuyển của dòng chảy chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam. Chính vì vậy, Hà Tĩnh đã trở thành nơi hứng chịu mưa bom bão đạn trong nhiều năm liền, và một trong những nơi chịu đựng gian khổ nhất là Ngã ba Đồng Lộc, một địa điểm chỉ cách sân bay dã chiến Libi khoảng 40km về phía Bắc. Tiếp sau phần trích hồi ký Trọn một con đường của Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, Ban biên tập trân trọng giới thiệu bài viết này của Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, để làm rõ hơn bối cảnh chiến trường Hà Tĩnh trong thời kỳ đó.
Đầu năm 1968, đòn Tổng tiến công Xuân Mậu Thân của quân và dân Việt Nam đã làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc giới cầm quyền Mỹ phải có những thay đổi một số chính sách và chiến lược quân sự đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngày 31/3/1968, Tổng thống Johnson tuyên bố đơn phương chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, không tiếp tục ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ mới. Tuyên bố này là sự thừa nhận thất bại hoàn toàn của chiến lược “chiến tranh cục bộ”, nhưng lại là khởi đầu cho những thủ đoạn quân sự, ngoại giao đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của giới cầm quyền Mỹ.
Trên thực tế, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng cách tiến hành tập trung đánh phá từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20, nơi được coi là “vùng cán xoong”, với địa hình vừa dài, vừa hẹp, dễ bị chia cắt; các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình lại là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam. Hành động này hòng ngăn chặn tối đa sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc vào miền Nam, cứu quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn khỏi sự thất bại sau đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Từ đánh phá trên diện rộng, không quân Mỹ chuyển sang tập trung vào các trọng điểm giao thông: Cầu Cấm, Phương Tích, Rú Nguộc, Truông Bồn, phà Nam Đàn, phà Bến Thủy (Nghệ An); bến Linh Cảm, ngã ba Đồng Lộc, Thượng Gia, Hạ Vàng, Khe Út, Bến Ràng, Còi Sâu (Hà Tĩnh); Bến Ron phà sông Gianh, Xuân Sơn, Long Đại, Quán Hàu, Phong Nha (Quảng Bình). Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận “Chúng ta đang tập trung ném bom vào khu vực đó gần 3.000 lần chiếc trong tháng Hai (1968) tăng lên 5.000 lần trong tháng Ba, 7.000 lần trong tháng Tư và bây giờ trong tháng Năm thì đã trên dưới 10.000 lần chiếc trong một tháng”(1). Hoạt động của không quân Mỹ đã khiến cho “Trên một diện tích nhỏ hẹp hơn 4 lần so với toàn miền Bắc, số trận ném bom lại tăng 2,6 lần, mật độ bom đạn tăng lên 20 lần”(2).
Lực lượng thanh niên xung phong tham gia sửa đường trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Suốt thời kỳ địch tiến hành “ném bom hạn chế” (từ tháng 4 đến tháng 10/1968), Hà Tĩnh là địa phương bị không quân Mỹ tập trung đánh phá ác liệt(3). Trên các cung đường huyết mạch qua địa bàn, đế quốc Mỹ lựa chọn 6 điểm, hình thành 3 cặp song song (Linh Cảm - Bến Thủy; Hạ Vàng - Thượng Gia - Ngã ba Đồng Lộc; cầu Họ - Ngã ba Thình Thình) để đánh phá. Trong đó, tập trung vào các trọng điểm Ngã ba Đồng Lộc (Can Lộc), Bến Thủy (nối Nghi Xuân và Thành phố Vinh), bến Linh Cảm (Đức Thọ), hòng ngăn chặn hoàn toàn giao thông từ Bắc vào Nam. Ngoài ra, địch còn thả ngư lôi và bom từ trường, phong tỏa các cửa biển, bến phà, quyết cắt đứt hoàn toàn tuyến vận tải chi viện tiền tuyến miền Nam. Ngày 20/4/1968, sau một thời gian bị Mỹ tập trung đánh phá liên tục, Quốc lộ 1A (đoạn từ cầu Hạ Vàng vào cầu Già ở Can Lộc) bị máy bay địch phá hỏng hoàn toàn. Các lực lượng vận tải của ta chuyển hướng hoạt động sang Đường 15, chạy qua vùng rừng núi phía Tây Hà Tĩnh. Từ đó, Ngã ba Đồng Lộc trở thành đầu mối giao thông có tính chất cửa ngõ trong hệ thống vận tải chiến lược chi viện chiến trường miền Nam.
Ngã ba Đồng Lộc là nơi giao điểm của Quốc lộ 15B và tỉnh lộ 2, thuộc xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc. Vùng đất hẹp chừng 0,6 km2 này nằm lọt giữa ba ngọn núi thấp (Mòi, Mác và Trọ Voi), rất khó cho mở đường tránh khi tuyến chính bị đánh phá; khó bố trí các trận địa pháo do một bên là đồi núi trọc, một bên là đồng trũng. Đây là nơi hiểm yếu nhất trên toàn tuyến Quốc lộ 15 qua địa bàn Hà Tĩnh. Hơn nữa, do nằm ở vùng bán sơn địa nên có nhiều ngầm và cầu cống nhỏ, khi bị bom đạn đánh phá, dễ bị chia cắt, việc khắc phục hậu quả và bảo đảm giao thông, vận tải càng trở nên khó khăn, gian khổ gấp bội.
Phát hiện vị trí chiến lược và hiểm yếu của Ngã ba Đồng Lộc, không quân Mỹ tập trung đánh phá với cường độ hủy diệt, biến nơi đây thành “tọa độ chết”, hòng chặn đứng sự chi viện cho các chiến trường. Trong 7 tháng tiến hành “ném bom hạn chế”, không quân Mỹ đã tiến hành 1.863 lần chiếc đánh vào Ngã ba Đồng Lộc, ném xuống vùng đất nhỏ hẹp này gần 50.000 quả bom các loại. Tổng số lần đánh Đồng Lộc bằng số lần đánh vào toàn tỉnh năm 1965, với số bom đạn nhiều gấp 2 lần. Bình quân một tháng địch đánh 28 ngày, ngày đánh nhiều nhất (15/7/1968), chúng đã sử dụng 103 lần chiếc máy bay, ném 800 quả bom(4). Lượng bom đạn địch đánh phá ở khu vực Đồng Lộc trong năm 1968 là 987 tấn, gấp 2,8 lần cả năm 1967 và nhiều hơn tổng lượng bom đạn địch thả xuống từ năm 1965 đến 1967 (566 tấn)(5). So với một số trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại trên địa bàn Quân khu 4 như cầu Hàm Rồng, phà Ghép, Truông Bồn…, Ngã ba Đồng Lộc là nơi hứng chịu lượng bom đạn nhiều nhất, mức độ ác liệt cao nhất(6). “Đã có những ngày Ngã ba Đồng Lộc phải chịu đựng 14 trận bom của 160 máy bay các loại”(7).
Ngoài ra, địch còn mở rộng phạm vi đánh phá ra các khu vực xung quanh dài 9 km, rộng từ 2 - 3 km với một số trọng điểm như cống 19, cầu Cơn Bạng, cầu Tùng Cốc, cầu Khe Út, quanh Ngã ba Trường Thành, Ngã ba Khiêm Ích. Không chỉ đánh phá giao thông, bom đạn Mỹcòn dội vào các thôn xóm ven đường. Nhân dân 4 xã Thượng Lộc, Đồng Lộc, Trung Lộc và Xuân Lộc chịu tổn thất to lớn về người và của do không quân Mỹ đánh phá: 336 người chết, 341 người bị thương, 3.738 ngôi nhà bị cháy, 2.400 tấn lúa gạo bị cháy thành than, 420 trâu bò bị giết(8).
Suốt ngày đêm, máy bay Mỹ tiến hành đánh phá với thủ đoạn hết sức thâm độc. Cùng lúc, chúng sử dụng nhiều loại bom đạn như bom đào, bom phá, bom bi, bom nổ ngay, bom nổ chậm, bom từ trường,… Ban ngày tập trung đánh hủy diệt các trận địa cao xạ, phá cầu, đường; ban đêm thả bom từ trường chặn các ngả đường, sử dụng pháo sáng, thả bom bi, bắn rốc két và đạn 20 ly nhằm tiêu diệt các lực lượng hoạt động tại đây. Bình quân mỗi mét vuông mặt đường xung quanh Ngã ba Đồng Lộc phải hứng chịu từ 3 đến 5 quả bom các loại. “Không một phương tiện, trang bị nào chịu đựng nổi những trận mưa bom; không một cỏ, cây nào sống nổi trên mặt đất nham nhở hố bom và sặc mùi khói đạn này”(9). Do sự đánh phá ác liệt của máy bay địch, lực lượng đối phó của ta lúc đầu còn mỏng, khiến hàng hóa bị ùn tắc, đình trệ, khối lượng vận chuyển vào đến Hà Tĩnh không ngừng giảm xuống. “Tháng 4 năm 1968, hàng vào đến Hà Tĩnh là 6.500 tấn, đến tháng 5 còn 1.600 tấn, sang tháng 6 lại tiếp tục giảm chỉ còn 1.430 tấn”(10).
Xác định việc bảo đảm giao thông vận tải thông suốt qua Ngã ba Đồng Lộc là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và vô cùng cấp bách, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo; các ngành, các địa phương huy động lực lượng, dồn sức bảo đảm giao thông qua Ngã ba Đồng Lộc. Tháng 6/1968, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đã nghiêm túc chỉ ra những thiếu sót khi chưa có kế hoạch đối phó kịp thời nhằm khắc phục thế “độc tuyến”, nêu quyết tâm: “Bảo đảm giao thông vận tải ở Ngã ba Đồng Lộc, chi viện cho tiền tuyến là nhiệm vụ số một của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Hà Tĩnh”(11). Ban chỉ huy giải tỏa Đồng Lộc, do đồng chí Trần Quang Đạt chỉ huy được thành lập, lực lượng tham gia có 5 đại đội thanh niên xung phong thuộc Tổng đội thanh niên xung phong P18, với quân số trên 1.000 người; Ngành giao thông vận tải Hà Tĩnh bố trí tổ cơ giới giao thông, đại đội chủ lực cầu, đại đội chủ lực giao thông, 3 đội công trình giao thông, tổ máy gạt Cục Công trình I.
Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Trung đoàn pháo cao xạ 210 gồm 5 đại đội pháo 57 ly (101, 102, 104, 105, 106), 2 tiểu đoàn pháo 37 ly (22, 24) và một phần của Tiểu đoàn 27 vào trực chiến đánh máy bay Mỹ; tham gia trên mặt trận phòng không tại Ngã ba này còn có Tiểu đoàn 8 pháo cao xạ của tỉnh Hà Tĩnh. Bộ Tư lệnh Quân khu 4 điều Tiểu đoàn công binh 30 ứng trực đảm bảo giao thông; đồng thời lên phương án Tiểu đoàn 500 Công binh Trạm 9 sẵn sàng chi viện khi cần thiết.
Các chiến sĩ pháo cao xạ thường xuyên bám cao điểm 24/24 giờ, dưới làn bom đạn của địch kiên quyết đánh trả máy bay địch. 12 giờ 11 phút ngày 8/6/1968, 5 đại đội pháo của Trung đoàn 210 đã nổ súng đánh trả máy bay địch. Liên tiếp trong các ngày 3, 4, 5 và 7 tháng 8, địch đã 13 lần đánh vào trọng điểm và trận địa của Trung đoàn, đơn vị đã đánh mạnh, bắn rơi hai chiếc. Trong suốt 5 tháng bám trụ tại Ngã ba Đồng Lộc, Trung đoàn đã đánh 1.076 trận, bắn rơi 14 máy bay Mỹ(12). Cuộc chiến đấu của Trung đoàn đã buộc máy bay địch phải bay cao ném bom, độ tản mát lớn, hạn chế bom rơi xuống đường, góp phần bảo vệ các đoàn xe và lực lượng đảm bảo giao thông trên trọng điểm này.
Có thời điểm, quân số trực chiến, đảm bảo giao thông ở Ngã ba Đồng Lộc lên đến 16.000 người(13). Cùng với đó là sự tham gia của dân quân du kích và nhân dân các xã quanh khu vực. Ngã ba Đồng Lộc trở thành nơi thể hiện đầy đủ sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân trên mặt trận bảo đảm giao thông vận tải; là nơi tập hợp đông đủ các lực lượng cao xạ, công binh, quân dân tự vệ, thanh niên xung phong, công an, bưu điện, cán bộ, công nhân ngành giao thông,… với đủ các hình thức nhằm giữ vững mục tiêu “thông xe, thông đường”.
Nêu cao quyết tâm “Sống bám cầu, bám đường. Chết kiên cường, dũng cảm”, các lực lượng đảm bảo giao thông vận tải tại Ngã ba Đồng Lộc đã anh dũng chiến đấu, ngày đêm túc trực để đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt. Các tổ quan sát, rà phá bom kiên trì bám trụ trọng điểm, phát hiện kịp thời, đánh dấu, nhanh chóng phá gỡ để thông đường. Lực lượng ứng cứu, giải tỏa luôn có mặt ở những nơi địch đánh phá ác liệt nhất để san lấp hố bom, làm đường, chống lầy, bốc dỡ, vận chuyển hàng hóa. Nhằm phá thế “độc tuyến”, hạn chế thiệt hại do địch gây ra, nhanh chóng giải tỏa giao thông tại Ngã ba Đồng Lộc, Ban chỉ huy giải tỏa Đồng Lộc quyết định mở các đường tránh.
Chỉ sau một thời gian ngắn, đường tránh Truông Kén - Đồng Liên dài 3 km và đường 70A, 70B dài hơn 12 km vòng tránh qua Ngã ba Đồng Lộc được hoàn thành. Để mở được những con đường này, hơn 3.000 hộ dân các xã Đồng Lộc, Thượng Lộc, Nhân Lộc với tinh thần “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, đã tự nguyện rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn để lấy đất làm đường. Các tuyến đường tránh đã phát huy tác dụng, đảm bảo các phương tiện vận tải qua đây không lúc nào bị ùn tắc. Từ các xã quanh khu vực đã có hàng nghìn người được huy động làm nhiệm vụ giải tỏa giao thông, tiếp tế lương thực, thực phẩm, đạn dược chăm sóc thương binh. Nhiều gia đình đã nhường nhà, nhường vườn để làm kho, làm nơi cứu thương, nhiều gia đình sẵn sàng dỡ nhà, đưa vật liệu ra đường để lát đường, chống lầy cho xe... tất cả vì đảm bảo giao thông thông suốt, giữ vững mạch máu chi viện cho chiến trường. Chỉ riêng xã Đồng Lộc đã đóng góp 5.000 ngày công vào công tác xây dựng 21 trận địa pháo cho Trung đoàn 210; tiểu đội rà phá bom mìn của xã Mỹ Lộc đã phá được 405 quả bom nổ chậm và bom từ trường(14)… góp phần cùng các lực lượng phá 1.780 quả bom các loại, huy động 974.440 ngày công để san lấp hố bom, sửa chữa cầu đường và làm các đường tránh, đường mới(15).
Bom đạn địch đã không ngăn được ý chí kiên cường và lòng quả cảm của lực lượng trụ bám nơi “ngã ba lửa” này. Trong thời gian đọ sức quyết liệt với không quân Mĩ, nhiều tấm gương chiến đấu anh dũng, sáng tạo, trở thành những biểu tượng sức mạnh trí tuệ và ý chí của con người Việt Nam. Ý chí kiên cường và lòng quả cảm của lực lượng đảm bảo giao thông trên Ngã ba Đồng Lộc đã vượt lên ác liệt của đạn bom quân thù. Chỉ riêng tháng 10/1968, quân và dân nơi đây đã đảm bảo cho 76.431 tấn hàng vượt qua trọng điểm, góp phần để trong năm 1968 quân và dân Hà Tĩnh vận chuyển được 122.527 tấn hàng cho chiến trường, gần bằng tổng khối lượng vận chuyển của hai năm 1965 và 1966(16).
Với tinh thần ngoan cường, dũng cảm, các lực lượng đảm bảo giao thông vận tải tại Ngã ba Đồng Lộc đã chấp nhận thử thách, hy sinh hoàn thành nhiệm vụ “thông tuyến, thông xe, đưa hàng ra chiến trường”, làm thất bại âm mưu của không quân Mĩ, hòng dùng sức mạnh đạn bom biến Ngã ba Đồng Lộc thành “tọa độ chết”, chặn đứng mọi sự chi viện chiến trường miền Nam, đưa địa danh này trở thành “mốc son chói lọi, một địa danh lịch sử oai hùng trên con đường chiến lược Trường Sơn mang tên Bác”.
Thiếu tướng Nguyễn Hoàng Nhiên
Viện trưởng Viện lịch sử Quân sự Việt Nam
“Trọn một con đường” là cuốn hồi ký của Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên do tác giả Duy Tường thể hiện, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 2012. Trong cuốn hồi ký này, vị tướng huyền thoại của tuyến có công lớn đối với con đường chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã hồi tưởng lại những tháng ngày chiến tranh, trong đó có những khoảng thời gian công tác trên mảnh đất Hà Tĩnh. Chúng tôi xin trích đăng một số nội dung trong cuốn hồi ký này để làm rõ hơn vai trò, vị trí của mặt trận Hà Tĩnh và các tuyến đường qua Hà Tĩnh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc.
Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên (phải) khi tham gia chỉ huy ở mặt trận miền Trung. Ảnh tư liệu
“Đầu năm 1965, đang là Tổng tham mưu phó, tôi được Bộ Chính trị cử vào làm Chính ủy Quân khu 4. Lúc này, chiến tranh không còn giới hạn ở Nam phần vĩ tuyến 17. Kể từ ngày 5/8/1964, ngày Mỹ cho máy bay ồ ạt đánh phá miền Bắc, lửa chiến tranh đã cháy rực trên cả hai miền. Hơn bất cứ nơi đâu trên miền Bắc, Khu 4 - rẻo đất tự bao đời lao đao bởi những thách đố, dữ dằn của thiên nhiên; bởi binh đao, giặc giã, nay lại vững vàng đứng nơi tuyến đầu cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Nhận quyết định trên giao, ngày 6/1/1965, tôi lên đường khi trời chưa tỏ mặt người… Tạm biệt Hà Nội thân thương, phố phường như còn ngái ngủ, mà nhịp sống đã trào lên những tín hiệu vội vàng của một ngày mới.
Dọc đường vào Khu 4, không khí chiến tranh như bức họa hiện dần bố cục, sắc màu. Những nòng pháo phòng không quấn lá ngụy trang vươn ngạo nghễ canh cầu Hàm Rồng, cầu Bùng, cầu Cấm... Những hầm hố cá nhân to nhỏ rải dọc ven đường.
Những bức tường nhà quét vôi trắng hôm nào, nay được phủ băng nhựa đường, bùn đất. Vinh - thủ phủ của Khu 4, thành phố giao thương trên bến dưới thuyền bình tĩnh, vững vàng trong dáng vóc một thành phố sẵn sàng đối mặt với kẻ thù. Người già trẻ nhỏ sơ tán ra vùng ven. Chợ họp sớm, tan nhanh. Những trận địa súng máy phòng không được cấu trúc rải rác trong thành phố. Trên nóc nhà cao tầng, thấp thoáng bóng dáng nam nữ tự vệ, bên những khẩu 12,7mm…
Từ mùa hè 1965, máy bay Mỹ đánh phá, chặn cắt dữ dội tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam, hình thành nhiều trọng điểm dọc theo trục đường số 1. Cầu Phủ, rú Nài - gần thị xã Hà Tĩnh là một trong những trọng điểm ác liệt nhất. Kẻ địch cũng rất tinh tường và xảo quyệt. Bởi lẽ, nơi đây ta bố trí một đài ra đa phòng không, hai tiểu đoàn cao xạ hỗn hợp gồm pháo 37mm và pháo 57mm bảo vệ cầu Phủ. Nhận được báo cáo địch quần đảo, săn diệt trận địa phòng không của ta, tôi cho rằng địch đang “say mồi”. Phải lấy độc trị độc! Chúng tôi xác định cần phải tăng cường hỏa lực, đồng thời phải làm tốt công tác nghi binh lừa địch, áp dụng chiến thuật phục kích trong tác chiến phòng không, tạo bí mật, bất ngờ để tiêu diệt địch. Ngay lập tức, chúng tôi chỉ đạo trung đoàn pháo phòng không chốt giữ nơi đây xây dựng thêm một số trận địa nghi binh - pháo được làm bằng thân cây phi lao sơn đen, ngụy trang chu đáo; còn trận địa thật được bố trí ở hướng đánh thuận lợi. Kết quả là kẻ địch đã mắc mưu.
Sau năm ngày chuẩn bị, ngày 16/8/1966, tôi cùng bộ máy Tổng cục Hậu cần tiền phương hết sức gọn nhẹ, do anh Đinh Thiện - Tham mưu trưởng Tổng cục phụ trách, lên đường vào Hà Tĩnh. Sở chỉ huy Tổng cục Hậu cần tiền phương đóng tại Hương Đô, Hương Khê, Hà Tĩnh. Tổng cục Hậu cần tiền phương có nhiệm vụ phụ trách bốn binh trạm vận tải từ nam sông Lam vào đến đặc khu Vĩnh Linh, tổ chức tiếp nhận hàng và bộ đội hành quân từ hậu phương miền Bắc vào, để giao cho Đoàn 559. Hương Đô nằm ở hữu ngạn sông Ngàn Sâu; vây bốn xung quanh là ba trọng điểm đánh phá ác liệt của địch: Lộc Yên, Khe Ác, La Khê. Chỉ huy sở của chúng tôi đóng cách trọng điểm Khe Ác chừng hai cây số, nằm trong vòng lượn của máy bay địch mỗi khi chúng oanh kích, nên suốt ngày đêm nghe ùng oàng, chát chúa tiếng đạn, bom.
Chúng tôi chọn đặt sở chỉ huy ở Hương Đô là chủ động giành yếu tố bất ngờ, gần đường vận tải, thuận tiện liên lạc và được Đảng bộ, chính quyền, nhân dân địa phương giúp đỡ tận tình. Với vị thế “địa lợi”, “nhân hoà”, Hương Đô đã trở thành nơi đóng Sở chỉ huy của ba Bộ tư lệnh: Tổng cục Hậu cần tiền phương, Bộ tư lệnh Đoàn 500 và Bộ tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn. Thật là một vị trí hiếm có trong chiến tranh. Ngoài thế trận lòng dân, cái vị thế “địa lợi” của Hương Đô là tạo được sự bất ngờ đôi. Với kẻ địch, bảo đảm được an toàn trong suốt chiến tranh. Hiện nay, Hương Đô đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Trong khi lực lượng vệ binh được sự hỗ trợ của cấp dân quân, thanh niên địa phương, khẩn trương làm công sự cho sở chỉ huy, tôi cùng anh Đinh Thiện và anh em trong cơ quan xây dựng chương trình, kế hoạch công tác tháng 9 và những tháng cuối năm 1966. Sau khi kế hoạch được chuẩn bị rập rạp về cơ bản, tôi bố trí anh Thiện ở nhà hoàn chỉnh tiếp, vừa chỉ đạo hoàn thiện việc xây dựng chỉ huy sở, còn tôi tranh thủ đi thực địa, làm việc với các binh trạm 9,12,14, 16 và các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, đặc khu Vĩnh Linh.
Cuối thu, vùng nam Quân khu 4 đã vào mùa mưa; những chỗ đường thấp rất lầy lội. Thời gian này, địch tập trung đánh phá giao thông, nhất là ban đêm; gây cho ta không ít khó khăn. Làm việc với chỉ huy Binh trạm 9 đóng ở ngã ba Lạc Thiện (Đức Thọ - Hà Tĩnh) - điểm giao giữa đường số 8 tỉnh lộ 15, Binh trạm trưởng báo cáo với chúng tôi hoạt động của binh trạm và tình hình đánh phá của địch. Trên địa bàn này có nhiều trọng điểm là: bến vượt sông tại Linh Cảm, Ngã ba Đồng Lộc, Khe Giao, Địa Lợi, Lộc Yên, Khe Ác, La Khê, Ka Tang...
Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên thăm lực lượng pháo cao xạ. Ảnh tư liệu
Ban ngày địch chủ yếu cho máy bay trinh sát, có kết hợp cường kích đánh phá. Cao điểm địch oanh tạc vào ban đêm, từ 7 giờ tối đên 3 giờ sáng. Thông thường, địch thả pháo sáng để phát hiện xe, phà của ta; kết hợp ném bom nổ ngay, nổ chậm, bom bi để sát thương, đuổi theo xe bắn rốc két. Điểm đánh phá tập trung là bến vượt sông, vượt suối, nơi đường qua chỗ trũng. Trọng điểm của trọng điểm là Địa Lợi - một điểm vượt sông khá hiểm. Ở đây sông hẹp, bờ sông gần như thẳng đứng, ngay gần bờ, nước cũng rất sâu. Khi bị địch đánh phá, ta rất khó khôi phục bến vượt. Do địch đánh rát, ta chưa có giải pháp khắc phục hữu hiệu, nên trong tháng 7 và tháng 8, đường tắc hơn nửa thời gian. Xe đi rải rác, thưa thớt, tốc độ rất chậm. Mỗi đêm xe chạy được chừng 30 đến 40km. Xe bị cháy nhiều. Kế hoạch vận chuyển của binh trạm chỉ đạt già nửa.
Lực lượng bảo đảm giao thông chỉ có công nhân giao thông của Hà Tĩnh, thanh niên xung phong các xã trên địa bàn. Pháo phòng không vừa ít, vừa bố trí trận địa xa trọng điểm, xa đường trục, khó bảo vệ được mục tiêu. Bộ đội lái xe, lái xe quốc doanh cũng như lực lượng bảo đảm giao thông rất dũng cảm, kiên cường, bám xe, bám đường, xác định giữ gìn mạch máu giao thông như mạch máu của mình, nhưng rất ngại không hoàn thành nhiệm vụ.
Tìm hiểu sơ bộ tình hình, tôi cho đào mấy chiếc hầm cá nhân dưới chân một ngọn đồi, sát bến vượt Địa Lợi, để tôi cùng các anh chỉ huy binh trạm “nằm” lại đó theo dõi, nghiên cứu tình hình một ngày, một đêm.
Sau khi bám trọng điểm, nghiên cứu quy luật đánh phá của địch, kết hợp những thông tin do binh trạm cung cấp, tôi nhận thấy Địa Lợi là bến vượt mà nếu bị địch oanh tạc, ta khó lòng khôi phục nhanh. Tuy vậy, tôi bàn với Ban chỉ huy binh trạm nên tìm ra cái được trong cái mất. Từ tắc đường cả tuần phải quyết tạm đưa xuống tắc ngày, tiến tới chỉ tắc giờ... Giải pháp trước hết là phải bỏ lối xưa nếp cũ, không chấp nhận thế độc đạo phải chủ động mở thêm đường vòng, đường tránh, làm thêm từ hai đến ba bến vượt, có cự ly thích hợp; có bến nghi binh. Sông hẹp, nên làm cầu phao bằng tre, nứa... cầu phao cũng có cầu chính, cầu phụ, cầu dự bị, nghi binh... Tôi kết luận: Vấn đề đã tương đối rõ, không thể chần chừ, để tình trạng tắc đường kéo dài là binh trạm có tội với chiến trường.
Sau hơn chục ngày, Binh trạm 9 tập trung lực lượng thực thi giải pháp trên, tình hình đã cải thiện đáng kể. Bên vượt Địa Lợi từ chỗ tắc cả tuần, đã tiến tới xóa được tắc đêm, chỉ còn tắc giờ mà thôi. Tiếp đó, khi Quân khu 4 và Quân chủng Phòng không Không quân tăng cường pháo 37mm, 57mm đánh máy bay địch, bảo vệ yếu địa, ta xóa luôn tắc giờ. Bài học của Địa Lợi lần lượt được phổ biến cho các bến vượt khác.
Sau khi làm việc với Ban chỉ huy Binh trạm 9, tôi làm việc với các anh trong Tỉnh ủy, ủy ban hành chính tỉnh Hà Tĩnh. Nghe tôi trực tiếp báo cáo nhiệm vụ của Tổng cục Hậu cần tiền phương, các đồng chí lãnh đạo tỉnh rất hoan nghênh. Bởi lẽ, tổ chức bảo đảm giao thông vận tải, chi viện chiến trường là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh lúc này. Tiếp đó, chúng tôi bàn bạc, thống nhất một số biện pháp về phòng không nhân dân, bảo đảm giao thông trên địa bàn tỉnh. Hà Tĩnh là một trong nhưng tỉnh rất tích cực về công tác bảo đảm giao thông của tuyến chi viện đi qua địa bàn. Lúc này, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Giao thông vận tải, Hà Tĩnh đã mở được đường tranh 21A, nối từ Kỳ Anh qua Quảng Trạch - Quảng Bình; đường 21B từ Khe Giao qua phía nam huyện Tuyên Hóa nối vào Quảng Bình sát bờ sông Gianh, tạo thành một mạng lưới bổ trợ hiệu quả cho đường số 1 và đường 15.
Chia tay các anh lãnh đạo Hà Tĩnh, tôi theo đường 15 vào Binh trạm 12 đóng ở Khe Ve thuộc huyện Minh Hóa, Quảng Bình. Binh trạm trưỏng là anh Nguyễn Đàm, Chính ủy binh trạm là Nguyễn Việt Phương. Binh trạm 12 phụ trách vận chuyển, giao liên... trên đường 12, từ Khe Ve đến Ba Na Phào và đường 15 từ Khe Ve đến Khe Gát, Xuân Sơn. Những trọng điểm địch đánh phá ác liệt nhất trên đường 12 là ngã ba Khe Ve, La Trọng, Bãi Dinh, cổng Trời, Cha Lo, Mụ Giạ. Trên đường 15, địa đoạn do Binh trạm 12 đảm trách có các trọng điểm: Khe Rinh, đèo Đá Đẽo... Những địa danh dung dị, bình thường như bao tên xóm tên làng Việt Nam, chỉ qua hai năm không quân Mỹ đánh phá đã trở thành những nơi ghi dấu chồng chất tội ác của chúng; đồng thời chính tại những “tọa độ lửa” đó đã xuất hiện biết bao gương chiến đấu, hy sinh quả cảm của bộ đội, công nhân giao thông, thanh niên xung phong và đồng bào ta, vì sự sống của con đường ra tiền tuyến.
Trong “tập đoàn trọng điểm” kể trên có ba trọng điểm ở nơi địa hình hiểm trở nhất, bị đánh phá ngăn chặn quyết liệt nhất, đường bị tắc kéo dài. Điển hình là thung lũng Khe Rinh – trên đường 15, được mệnh danh là “túi bom” - là trọng điểm của trọng điểm. Nơi đây, đường băng qua một thung lũng rất hẹp, ở giữa có con suối chảy qua, cứ sau mỗi trận mưa, lại biến thành vũng lầy.
Gần như thành quy luật, cả ngày lẫn đêm, cách quãng chừng ba giờ, máy bay địch lại ném xuống Khe Rinh một đợt bom. Chúng ném kết hợp bom phá, bom sát thương, bom nổ ngay và nổ chậm, hẹn giờ. Hoạt động của ta và đối phương cũng không hẹn mà trở thành quy luật, nhưng phía chịu đòn là ta. Cứ sau một đợt đánh phá của máy bay địch, lực lượng bảo đảm giao thông của ta thường trực tại trọng điểm lại ào ra san lấp hố bom. Ta làm vừa xong, một vài chuyến xe vừa qua trót lọt, lại một đợt ném bom tiếp của địch; ta lại san lấp. Không khác gì cảnh “ném đá ao bèo”, “dã tràng xe cát”. Mặc dù sức lực, máu xương đổ ra vô kể mà đường tắc vẫn hoàn tắc.
Sau khi nghe Ban chỉ huy binh trạm báo cáo tổng hợp tình hình tôi nêu sơ bộ một số biện pháp, khăc phục ách tắc. Binh trạm trưởng Nguyễn Đàm và Chính ủy binh trạm Nguyễn Việt Phương mới nhận nhiệm vụ chưa được bốn tháng, là những cán bộ có dũng, có mưu; nhưng chưa đủ thời gian để đúc rút kinh nghiệm thực tiễn. Vì vậy, tôi chủ định sẽ bàn thảo với các anh trên thực địa. Liền đó, tôi cùng anh Nguyễn Đàm xuống Khe Rinh, chọn một hang đá bên đường, ngồi ở đó suốt một ngày một đêm để quan sát hoạt động của cả ta và địch.
Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên động viên cán bộ chiến sỹ. Ảnh tư liệu.
Do yêu cầu tăng cường công tác chi viện chiến trường, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Tổng cục Hậu cần tiền phương, phạm vi đảm trách từ bờ nam sông Lam đến Vĩnh Linh, với nhiệm vụ:
- Tổ chức vận chuyển tạo chân hàng và tổ chức hành quân giao liên chuyển giao cho Bộ tư lệnh 559.
- Vận chuyển hàng hóa và tổ chức hành quân giao liên giao cho tỉnh Quảng Trị.
- Phối hợp với các tỉnh và Quân khu 4, bảo đảm giao thông, đánh địch trên không, trên biển, bảo đảm vận chuyển.
Về tình hình đánh phá, ngăn chặn của không quân và hải quân địch, qua khảo sát thực địa, tôi thấy địch đã nhằm đúng nơi địa hình hiểm yếu của ta - vùng cán xoong Khu 4; chúng đã tạo thành một “túi lửa”, một tuyến lửa nhằm chặn cắt tuyến chi viện chiến lược của ta ở khu vực này. Qua hai năm đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ với quy mô, cường độ vô cùng ác liệt, quân và dân Khu 4 đã chiến đấu dũng cảm ngoan cường, với hàng loạt khẩu hiệu hành động: “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Tay cày, tay súng”... Và bước đầu chúng ta đã thu được kết quả trên mặt trận chiến đấu, sản xuất, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; đặc biệt là mặt trận giao thông vận tải, chi viện chiến trường.
Thắng lợi của ta đã làm cho địch ngày càng điên cuồng lồng lộn, tìm trăm phương nghìn kế thâm độc, đánh rộng ra cả miền Bắc, nhằm ngăn chặn hoạt động chi viện của hậu phương miền Bắc từ gốc. Riêng địa bàn nam Khu 4, địch đã hình thành từng trọng điểm đánh phá rất lợi hại, và trên thực tế đã gây cho ta không ít khó khăn, tổn thất, hạn chế hiệu quả hoạt động chi viện chiến trường. Đó là một thực tế. Vấn đề cơ bản là thực tế đó phải được phân tích một cách khoa học. Lúc này, trên toàn tuyến kể cả ba đường có chiều dài gần 300 cây số; tiềm lực của địch là rất lớn, nhưng chúng cũng chỉ có thể đánh trong cùng một lúc từ hai đến ba điểm, không thể đánh được tất cả các trọng điểm. Trong một ngày đêm, địch có thể đánh kéo dài nhiều giờ; nhưng không thể đánh 24/24 giờ. Địch đánh rát những ngày nắng, khô ráo, những ngày mưa không đánh được; đánh ban đêm cũng hạn chế, cho dù có pháo sáng, kể cả pháo hạm từ Biển Đông bắn vào cũng không chệch ra ngoài quy luật đó.
Như vậy, lúc đánh, lúc không; nơi đánh, nơi không; nơi đánh nhiều, nơi đánh ít... là quy luật đánh phá của địch. Cái mạnh của địch là chủ động, cơ động trên không, vũ khí, khí tài hiện đại; nhưng cái yếu cơ bản nhất là chúng không làm chủ được mặt đất. Trái lại, cái mạnh cơ bản của ta là làm chủ được mặt đất, chủ động tìm ra biện pháp, sử dụng quy luật hoạt động của địch để chống lại chúng có hiệu quả. Tư tưởng chỉ đạo của ta trong cuộc đối đầu với kẻ thù là: chủ động tiến công, chủ động phòng tránh, không phòng tránh đơn thuần, cam chịu may rủi.
Để thắng được địch trong cuộc đối đầu này, chúng ta phải giải quyết tốt một số vấn đề:
- Lực lượng làm công tác giao thông phải có đủ công sự, đảm bảo cự ly thích hợp, có chất lượng cho người, công sự cứu thương, công sự cho xe, máy; công sự cho phà, cho bộ đội hành quân dọc đường, nơi trú quân, nơi tác nghiệp bảo đảm giao thông. Đó là các biện pháp quyết định đảm bảo an toàn cho người làm chủ mặt đất; chứ không phải tìm nơi phòng tránh ở xa tuyến vận chuyển, xa trọng điểm mối an toàn.
- Phải tích cực ngụy trang những mục tiêu, khu vực, những cần ngụy trang; nhưng phải phù hợp vối thực tế của địa hình và vật cần ngụy trang. Phải liên tục nghi binh lừa địch. Tại những điểm quan trọng phải nghi binh thật tốt để thu hút địch.
- Với lực lượng đảm bảo giao thông, phải có bộ phận cơ động, có bộ phận mạnh được chuẩn bị chu đáo công sự chốt ở các trọng điểm, để ngay sau khi địch đánh phá là rời công sự, tác nghiệp ngay; đồng thời phải chủ động tập kết vật liệu gần trọng điểm để khắc phục ngay hậu quả đánh phá của địch. Sau khi san lấp xong những chỗ bị địch đánh phá, nên đổ đất đá thành từng đống rải rác để ngụy trang lừa địch. Những điểm đường vượt vùng trũng, sình lầy bị địch đánh phá, cho sửa chữa lại làm tuyến nghi binh, cần làm đường vòng, đường tránh men theo chân đồi, hay nơi đất cứng.
- Đường qua suối cần có từ hai đến ba bến ngầm có chất lượng, cự ly thích hợp. Ngầm nào đã lộ, chuyển thành mục tiêu nghi binh.
- Điểm vượt sông phải có từ hai đến ba bến phà, có bến nghi binh. Những sông nhỏ, nên dùng tre, gỗ... kết thành cầu phao; ban đêm bắc để xe pháo qua sông; ban ngày tháo cất; có cầu phao chính, cầu phao nghi binh.
- Hiện nay, mùa mưa đã đến. Hằng ngày, mây mù dày đặc, trần mây thấp; máy bay địch rất khó hoạt động. Đây là “thiên thời” cho phép ta hoạt động ban ngày; tổ chức vận chuyển với đội hình tập trung thích hợp. Muốn vậy, yêu cầu cấp thiết là phải “đá hóa” mặt đường những tuyến, những đoạn đường chưa rải đá; đảm bảo cầu, phà vượt sông, suối. Phạm vi Tổng cục Hậu cần tiền phương đảm trách hiện nay, trên cả ba tuyến: đường số 1, đường 15, đường 12, với trên 300 cây số, mới rải đá được hơn phân nửa. Còn lại, trên 130 cây số mặt đường cần rải đá.
Những tuyến, những quãng chưa rải đá, đa phần có dân hai bên đường. Đây là yếu tố “nhân hòa”. Đề nghị lấy lực lượng giao thông các tỉnh làm nòng cốt và huy động dân quân, nhân dân tại chỗ khai thác nguồn đá vôi vô tận hai bên đường để rải. Công nhân giao thông được chia ra từng xã, sử dụng thuốc nổ đánh đá hộc; nhân dân phân tán theo tuyến đường, có công sự bảo đảm, đập đá 4X6cm bằng thủ công. Quảng Bình huy động hai vạn người, Hà Tĩnh huy động một vạn người, trang bị đầy đủ búa đập, có tổ chức chỉ huy chặt chẽ, đảm bảo ăn ở tại địa phương. Lực lượng giao thông cùng một bộ phận dân quân đảm trách rải đá mặt đường, có đầm.
Chiến dịch “đá hóa mặt đường” được tổ chức thực hiện từ ngày 1/9/1966. Những nơi mặt đường yếu, cần tập trung cao hơn quyết tâm dứt điểm sớm. Lực lượng công binh tập trung giải quyết các bến vượt sông, suốỉ, với vật liệu khai thác, huy động tại chỗ là chính. Quân khu và Bộ Giao thông vận tải hỗ trợ một số cầu phao.
Những nội dung tôi đề xuất được các đại biểu dự hội nghị nhất trí cao. Đại biểu các tỉnh, các đơn vị đều bày tỏ quyết tâm triển khai ngay, không thể chậm trễ. Về đánh địch trên không và pháo hạm trên biển, tôi đề nghị lực lượng phòng không, pháo binh bờ biển cả ba thứ quân có bước điều chỉnh lại thế trận, tập trung đánh địch ở các trọng điểm, bảo vệ cầu đường, bảo vệ đội hình xe vận tải, kết hợp cơ động đánh địch khi cần.
Về vận chuyển, bộ đội xe phải quân sự hóa, “chiến đấu hóa”; tổ chức vận chuyển đội hình lớn hay nhỏ tùy tình hình; nhưng dù quy mô nào cũng phải đi theo đội hình chiến dấu, có tổ chức chỉ huy. Xe phải ngụy trang, có vật liệu chống cháy, chống bom bi...
Bộ đội tranh thủ ngủ nghỉ vào ban ngày, nhưng cũng phải dành thời gian chuẩn bị về kỹ thuật... Tại các trọng điểm đánh phá của địch, phải có trạm chỉ huy xe hành quân; có công sự ngụy trang cho xe, cho người tiếp cận; đảm bảo đường, cầu, phà luôn luôn sẵn sàng cho xe vượt trọng điểm nhanh, cấp tập. Các lực lượng bảo đảm chiến đấu: thông tin, quân y, kích keo, sữa chữa kỹ thuật, cứu chữa hàng hóa... phải thường trực tại mặt đường, xử trí kịp thời những vấn đề nảy sinh; đặc biệt là các trọng điểm.
Tôi đề nghị ngay sau hội nghị này cần thành lập Ban chỉ đạo thống nhất, gồm các lực lượng: giao thông, phòng không, vận chuyển; nơi có điều kiện, mời đại diện chính quyền địa phương tham gia; lấy binh trạm làm chỉ huy sở. Đại biểu các tỉnh, các binh trạm tán thành và đánh giá cao những vấn đề được chúng tôi khái quát, đề xuất. Anh Việt Phương - Chính ủy Binh trạm 12, vốn là một nhân vật có tư duy khái quát, thường hay đi sâu phân tích những vấn đề cốt lõi, hoan hỉ nói: “Tại hội nghị này, Thủ trưởng Tổng cục đã mở rộng cửa cho chúng ta thấu hiểu. Vận dụng các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa vào các biện pháp, tình huống xử lý thiết thực. Phép dụng binh này, là cán bộ quân sự, ai cũng đã học, nhưng vận dụng vào thực tiễn không phải ai cũng làm được. Bởi điều đó còn phụ thuộc vào khả năng từng trải chiến đấu; phụ thuộc vào cái tâm, cái trí, cái dũng, cái mưu của mỗi con người”.
Anh Trần Quang Đạt - Giám đốc Ty Giao thông Hà Tĩnh, anh Lại Văn Ly - Giám đốc Ty Giao thông Quảng Bình bày tỏ: “Sử dụng sức mạnh nhân dân tại chỗ, chúng tôi cũng đã nhận thấy, nhưng để làm gì, làm như thế nào thì quả thật còn lúng túng. Nguyên nhân có thể là chưa có gan lớn như anh. Hôm nay, chúng tôi tiếp nhận ở hội nghị này không chỉ biện pháp thực hiện mà vấn đề cốt lõi, lớn lao hơn là quan điểm, tư tưởng về sức mạnh nhân dân, chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại. Rất thuận cho Ngành Giao thông hai tỉnh là hôm nay, hai đồng chí Phó chủ tịch tỉnh đến dự hội nghị, chắc chắn những gì đã thống nhất tại hội nghị sẽ được triển khai nhanh”.
Đai diện Bộ Tư lệnh Quân khu 4 khẳng định: “Chúng tôi hoàn toàn nhất trí đề xuất của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương. Lực lượng phòng không ba thứ quân, pháo bờ biển phải lấy tư tưởng đánh tiêu diệt để bảo vệ mục tiêu. Mục tiêu chủ yếu lúc này là cầu, đường, xe vận tải..., phục vụ cho nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu vận chuyển chi viện chiến trường. Chúng tôi thật sự tâm đắc chủ trương phải có ban chỉ huy thống nhất ở những trọng điểm trên các tuyến đường trọng yếu; chỉ với ban chỉ huy thống nhất mới tạo được sự hiệp đồng chặt chẽ, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chung...”
Tiếp đó, nhiều đồng chí khác phát biểu bổ sung làm rõ thêm một số vấn đề. Hội nghị dự kiến tiến hành trong một ngày, nhưng chỉ tròn buổi sáng, hầu hết đại biểu đều thống nhất, vấn đề đã rõ ràng, không cần kéo dài; thời gian bây giờ dành cho triển khai thực hiện…
Sau bữa cơm trưa đạm bạc, các đại biểu chia tay nhau gấp gáp trở về đơn vị. Biết bao công việc đang chờ họ. Sáng ngày 1/9, mở màn chiến dịch “đá hóa” mặt đường. Cán bộ sở chỉ huy Tổng cục Hậu cần tiền phương chia nhau xuống các binh trạm, các khu vực làm đường. Tất cả đều phản ánh về: thời gian ra quân đúng; lực lượng đơn vị nào cũng vượt quy định; công tác chuẩn bị tốt nên lao động đạt năng suất, hiệu quả ngay từ đầu; một vài nơi thiếu búa đập đá, đang cho đi mua. Cán bộ giao thông các tỉnh tập huấn cách đập đá, rải đá, cách đầm ngay tại hiện trường. Cảm tưởng chung nhất là không khí trên các tuyến đường như ngày hội lớn.
Qua báo cáo từ các binh trạm, các tuyến, máy bay địch đã đánh trúng một số khu vực ta đang làm đường, nhưng do chuẩn bị công sự, hầm hào chu đáo, nên chỉ một vài người hy sinh, bị thương. Mặc dù có thương vong, nhưng không một ai dao động, tất cả vẫn bám đường, bám trọng điểm.
Toàn tuyến hình thành 14 mũi (cụm). Mũi cao nhất đảm trách rải 7 kilômét trong một tháng; mũi thấp nhất 4 kilômét; bình quân 5 kilômét. Tổng cộng một tháng toàn tuyến rải được 70 kilômét, mặt đường rộng trung bình 3,5 mét. Đến cuối tháng 9, cơ bản các đoạn lầy lội nặng đã được giải tỏa. Chỉ chờ có vậy, trung tuần tháng 9, vào những ngày trời nhiều mây, trần mây thấp, chúng tôi đã có thể tổ chức xe vận tải đội hình tiểu đội, trung đội thực tập chạy ban ngày an toàn. Cuối tháng 9, đội hình vận tải đã nâng lên quy mô đại đội.
Đang ở giai đoạn đầu, nên khó khăn chưa phải đã giải quyết được ngay một lúc. Gỡ được họa mặt đường lại vấp phải sông suối. Miền tây Hà Tĩnh, Quảng Bình sông suối lớn nhỏ chằng chịt. Gặp mưa to, nước dâng rất nhanh. Hết mưa, nước rút cũng nhanh. Để giải quyết tình trạng sông suối ngập gây ách tắc, chúng tôi chỉ đạo cho các binh trạm khảo sát phân loại; suối nhỏ bố trí công binh, công nhân giao thông trực thường xuyên, đảm bảo xe cứ đi. Với suối vừa và lớn, dùng rọ đá tôn cao ngầm, tranh thủ đi nhanh khi tạnh ráo và khi bắt đầu mưa. Khi nước suối lớn, phải dừng ngay và chuẩn bị sẵn sàng để khi nước xuống, tổ chức vượt cấp tập.
Tháng 10, chiến dịch “đá hóa mặt đường” vẫn tiếp tục, để hoàn thiện 130 kilômét cần rải. Nhưng với địa bàn nam Khu 4, tháng 10 rất sẵn mưa. Máy bay địch hạn chế hoạt động, ô tô vận chuyển ban ngày rất tốt, nhưng lại tắc về sông, suối. Không chịu bó tay, chúng tôi chỉ đạo các binh trạm tổ chức cho xe tiếp cận, phục kích, theo dõi, hễ nước xuống là cấp tập vượt. Thực tế cho thấy, tắc đường vì mưa cộng với đường xấu gây lầy lội thường kéo dài triền miên. Tắc suối vì mưa lũ xảy ra có ngày, có đợt. Với người làm giao thông vận tải, tắc suối dễ chịu hơn. Kế hoạch vận chuyển đạt cao hơn. Tuy vậy, các binh trạm chủ động tích cực tìm mọi biện pháp: nâng ngầm, làm đường tránh để hạn chế tắc suối. Riêng cầu phao bằng tre, nứa không chịu được khi lũ lớn, nước to, chảy xiết.
Cuối tháng 11, việc rải đá mặt đường cơ bản xong, chiến dịch “đá hóa mặt đường” kết thúc; chúng tôi quyết định chỉ giữ lại lực lượng giao thông, thanh niên xung phong, công binh để đảm bảo giao thông, gia cố mặt đường cấp phối, khắc phục những điểm tắc cục bộ.
Thời gian này mưa rào giảm, cũng đồng nghĩa với tình trạng thác đổ sông suối giảm; bắt đầu mùa mưa dầm. Suốt một dải miền Tây Khu 4, ngày ngày bầu trời xám xịt, trĩu mây... Đây là thời cơ thuận lợi cực lớn để tận dụng yếu tố “thiên thời”; sử dụng tối đa lòng dũng cảm có căn cứ khoa học, chúng tôi phát huy ưu thế của đường đá, tổ chức vận tải cơ giới, đội hình lớn. Triệt để tranh thủ “thiên thời”, chúng tôi đề ra phương châm vận chuyển ban ngày là chính, ban đêm là bổ trợ, đi đội hình tiểu đoàn là chính, đội hình nhỏ là bổ trợ. Kết quả thật tuyệt vời, nhưng không bất ngờ - kế hoạch vận chuyển tháng 11 vượt 180%, bằng cả mười tháng cộng lại. Không khí phấn khởi, hồ hởi tràn ngập các binh trạm, từng cung đường. Chỉ một thời gian ngắn mà thế cờ gần như đảo ngược. Nếu đây là một trận đấu bóng, thì đội Tổng cục Hậu cần tiền phương đã tung một cú sút ngoạn mục làm tung lưới nghiêng ngả khung thành đối phương.
Đang giữa hè, vừa để tránh nắng, vừa tránh giờ cao điểm địch đánh phá dọc đường, 4 giờ sáng ngày 14/6/1967, đoàn chúng tôi xuất phát tại Hà Nội. Phải mất tròn hai ngày hai đêm chúng tôi mới vào tới Hương Đô. Quãng đường chưa tới 400 cây số. Địch đánh dữ. Hầu hết ở các cầu, phà trọng yếu, chúng ta đều phải làm đường vòng, bến phụ. Công nhân giao thông, thanh niên xung phong trực tại chỗ suốt ngày đêm, kịp thời giải tỏa mọi ách tắc. Cùng đồng hành với chúng tôi trên đường ra tiền tuyến là những đoàn xe nặng hàng, kín lá ngụy trang, thân mình đầy chứng tích bom đạn. Là những đoàn tàu lầm lũi trong đêm chở cả xe tăng, pháo cỡ lớn thẳng hướng về Nam. Dọc kênh Nhà Lê từ Thanh Hóa vào Nghệ An, tôi còn thấy những đoàn vận tải thuyền nan, lúc ẩn, lúc hiện dưới những lùm cây. Hỏi ra mới biết đó là những thành viên Đoàn vận tải Lam Sơn, Đoàn vận tải Điện Biên do tỉnh Thanh Hóa tổ chức. Dọc các cung đường qua Nghệ An, Hà Tĩnh, chúng tôi gặp nhiều đoàn xe thồ. Những lão nông da cháy sạm, đầu nón lá, chân đất, áo nâu... gập mình đẩy những chiếc xe đạp “cõng” bốn, năm bao gạo...
Chập tối ngày 15/6, đoàn tới ngã ba Đồng Lộc. Xe qua ngã ba đông, ùn lại một quãng dài. Đồng chí lái xe, nhanh như cắt chạy tìm người chỉ huy giao thông. Lập tức xe tôi được ưu tiên lách lên phía trưốc. Bất thần một tốp máy bay địch ào tới ném bom, phóng rốc-két. Một xe của đoàn, chạy sau xe tôi hơn năm chục mét trúng đạn, bốc cháy. Lái xe, đồng chí bảo vệ, và một nữ nhân viên văn phòng cùng đi hy sinh. Cả đoàn dừng xe lo việc mai táng, vĩnh biệt đồng đội. Thanh niên xung phong, công nhân giao thông trực trọng điểm... cùng sẻ chia với chúng tôi nỗi đau mất mát, lo chôn cất, làm đầy đủ bia mộ cho những người lính Trường Sơn vĩnh viễn yên nghỉ tại trọng điểm này.
Mờ sáng ngày 16, chúng tôi mới có mặt tại Hương Đô. Qua làm việc với các anh Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Đinh Đức Thiện, Phan Trọng Tuệ và các đồng chí lãnh đạo khác, đặc biệt những gì mắt thấy tai nghe trên những nẻo đường tôi qua là minh chứng sống động nhất của một thời cả nước ra trận. Cả hậu phương gồng mình lên vì chiến trường, vì miền Nam yêu dấu, vì nghĩa tình quốc tế cao cả. Một thời hạt gạo chia ba, chia bốn; dẫu thân mình cũng chịu nhiều thương tích vì bom đạn thù, miền Bắc vẫn thực hiện xuất sắc sứ mạng lịch sử của mình, là cái “nền”, cái “gốc” của cách mạng cả nước - như Bác Hồ từng dạy. “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” là khẩu hiệu hành động, là tiếng nói từ con tim, khối óc của mỗi người dân hậu phương vì sự vững mạnh của hậu phương lớn và vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Vừa vào tới Hương Đô, sáng 16/6 chúng tôi làm việc luôn với cán bộ chủ trì cơ quan Bộ Tư lệnh 559, Tổng cục Hậu cần tiền phương, nắm lại toàn bộ kế hoạch và nội dung hội nghị tổng kết - tập huấn. Hai ngày sau, Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh thông qua lần cuối nội dung và công tác chuẩn bị cho hội nghị; đặc biệt là khâu chuẩn bị công sự và bố trí lực lượng cao xạ bảo vệ, bởi địa điểm họp gần các trọng điểm Yên Lộc, Khe Ác.
Hạ tuần tháng 6, hội nghị tổng kết chiến đấu mùa khô 1966 - 1967 của Đoàn 559 được tiến hành tại xã Hương Xuân. Do địa điểm họp kề cận Hương Đô - nơi đặt Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh nên về sau mọi người trong chúng tôi quen gọi là hội nghị Hương Đô. Đây là hội nghị có đông đủ thành phần tham dự nhất kể từ ngày thành lập Đoàn 559, gồm cán bộ quân chính cả tuyến 559 và tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương. Dự hội nghị còn có đại biểu các cơ quan Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải, Ban 67, Quân khu 4, các binh chủng có liên quan, đại biểu các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đặc khu Vĩnh Linh... Hội nghị này không đơn thuần là tổng kết mà còn là hội nghị tập huấn với nhiều nội dung rất mối về nghệ thuật quân sự lần đầu tiên được vận dụng thắng lợi trên tuyến vận tải quân sự chiến lược. Văn bản trình bày ở hội nghị, tái sử dụng một phần báo báo cáo ở hội nghị quân chính tháng 2/1967 ở trong tuyến. Do công tác chuân bị tốt, biểu mẫu thông kê các mặt hoạt động đầy đủ, nên trong báo cáo tổng hợp, tôi chỉ tập trung đánh giá chung và rút ra một số bài học kinh nghiệm:
- Đánh giá, phân tích tình hình địch - ta trong mùa khô 1966 - 1967, nêu bật cái mạnh, cái yếu của ta và của đối phương; chủ yếu trang bị cho cán bộ những vấn đề cơ bản về phương pháp luận; phân tích, vận dụng vào điều kiện không quân Mỹ đánh phá, ngăn chặn tuyến vận tải quân sự chiến lược; vấn đề cần phải làm chủ của ta - phía chiến đấu chống ngăn chặn, với sức mạnh của bộ đội binh chủng hợp thành, điểm giống và khác nhau trong việc triệt để lợi dụng các yếu tố: Thiên - Địa - Nhân.
- Quán triệt nhiệm vụ, chức năng của tuyến vận tải chi viện chiến lược cho các chiến trường về cả ba mặt: là một tuyến vận tải quân sự chiến lược, là một hướng chiến trường trọng yếu, là một căn cứ chiến lược của các chiến trường.
- Là một chiến trường “Đánh địch mà tiến, mở đường mà đi” phải vận dụng nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân, tư tưởng chiến thuật tác chiến vào cuộc chiến đấu chống ngăn chặn. Mùa khô 1966 - 1967, về tổ chức vận chuyển, Tuyến 559 đã thử nghiệm thành công đội hình tiến công nhiều thê đội; mật tập, liên tục, lấy đại đội làm đội hình tiến công cơ bản; đặc biệt đã sáng tạo một tổ chức độc đáo của bộ đội binh chủng hợp thành, lấy bộ đội vận tải làm chủ. Bộ đội vận tải sử dụng đội hình tiến công phải có sự yểm trợ trực tiếp của hỏa lực cao xạ, của công binh, bộ binh và các lực lượng bảo đảm khác một cách nhịp nhàng, đồng bộ, dây chuyền, liên hoàn...
- Chuyển Bộ Tư lệnh và cơ quan Bộ Tư lệnh chỉ đạo là chính sang có kết hợp chỉ huy; chuẩn bị tiến tới tổ chức chiến dịch vận tải trên toàn tuyến.
- Từng binh trạm củng cố chỉ huy thống nhất do binh trạm tổ chức; đặc biệt là chỉ huy trực tiếp bộ đội binh chủng hợp thành ở các trọng điểm, khu căn cứ tập kết xuất phát. Chỉ huy các cấp phải thực hiện được năm trực tiếp: Trực tiếp giao nhiệm vụ; trực tiếp tổ chức hợp đồng chỉ huy chiến đấu; trực tiếp kiểm tra; trực tiếp xử lý công việc kịp thời; trực tiếp báo cáo cấp trên. Ở đây, bộ đội thông tin đã trở thành một lực lượng quan trọng của bộ đội binh chủng hợp thành. Hiện nay, trên tuyến mới tổ chức được mạng thông tin khá tốt ở tập đoàn trọng điểm Văng Mu - Tha Mé. Năm 1968, ta sẽ phát triển mạng lưới thông tin, đặc biệt là thông tin tải ba. Lúc đó, “động mạch” chủ “động mạch” nhánh sẽ lưu thông tuần hoàn trong một cơ thể cường tráng.
Sau hội nghị quan trọng này, Bộ Tư lệnh sẽ định hình cơ bản tư tưởng chiến thuật cho từng binh chủng trên tuyến. Trước mắt, áp dụng cho đợt diễn tập thực binh bộ đội hợp thành trong tháng 8 tới. Bước đầu soạn thảo nhanh tư tưởng chiến thuật cho một số binh chủng. Ví dụ, đánh tiêu diệt là tư tưởng chung. Nhưng bộ đội cao xạ trên Tuyến 559, khi đã xác định lấy bộ đội vận tải làm chủ công thì cách đánh của bộ đội cao xạ là tiêu diệt máy bay địch đánh phá đội hình xe hành tiến, cầu đường. Đó là tư tưởng chủ đạo. Các binh chủng khác và lực lượng phục vụ cũng thực hiện như vậy. Hội nghị thống nhất khẳng định: Sau 8 năm, mùa khô 1966 - 1967, Tuyến vận tải quân sự 559 đã thử nghiệm thành công vận tải cơ giới có quy mô trong điều kiện đối phương tiến hành chiến tranh ngăn chặn quyết liệt. Là mùa khô đầu tiên thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch vận tải; giao quân bổ sung cho chiến trường với số lượng lớn nhất, kịp thời nhất. Là mùa khô lực lượng 559 bắn rơi nhiều máy bay, tiêu diệt được nhiều bộ binh địch, tham gia giải phóng được một số vùng đất đai của bạn. Cũng là mùa khô mở được nhiều đường mới, nhất là đường vòng tránh, bảo đảm giao thông thông suốt liên tục. Đặc biệt, đây là mùa khô đầu tiên các lực lượng binh chủng trên tuyến vận dụng đúng đắn tư tưởng tiến công, nghệ thuật và chiến thuật quân sự phù hợp với đặc điểm của tuyến vận tải quân sự chiến lược trong chiến tranh.
Không khí hội nghị như lửa gặp gió khi anh Vũ Xuân Chiêm đọc điện của Đại tướng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp biểu dương thành tích của Đoàn 559 trong mùa khô 1966 - 1967. Điện của anh Văn chỉ rõ: “Thắng lợi mùa khô 1966-1967 là bước đầu, nhưng quan trọng là ở chỗ rút được những bài học mới làm cơ sở để củng cố tổ chức lực lượng và định hướng cho cuộc chiến đấu mùa khô 1967-1968. Một điều rất quan trọng là xây dựng được tư tưởng tiến công - tư tưởng căn bản của Quân đội ta. Khẳng định chủ trương cơ giới hóa vận tải của Quân ủy Trung ương là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của chiến trường”.
Hầu hết đại biểu dự hội nghị rất phấn khởi nhất trí cho rằng hội nghị Hương Đô đúng là vừa tổng kết, vừa tập huấn, ở góc độ tổng kết, đã nhất trí khẳng định lấy vận tải cơ giới là chủ yếu; ở góc độ tập huấn, lần đầu tiên chúng ta đã tiếp nhận được tư tưởng chiến thuật tấn công quân sự cho các loại binh chủng. Đây là mốc có tính chất lịch sử, để chuyển sang tác chiến hiệp đồng binh chủng trên tuyến đường Hồ Chí Minh, tạo thế, tạo lực mới để tiến lên hoàn thành nhiệm vụ vận tải chi viện chiến lược. Kết thúc hội nghị, toàn bộ lực lượng phía sau cũng như lực lượng trên tuyến khẩn trương chuẩn bị cho một mùa khô mới. Mấy anh em trong Bộ tư lệnh chia nhau xuống từng đơn vị, trực tiếp nắm công tác tập huấn, củng cố tổ chức, bổ sung quân số, trang bị kỹ thuật.
Đồng thời, chúng tôi cũng nhận được điện của anh Hồng Kỳ báo lực lượng ở lại tuyến triển khai tốt nhiệm vụ bảo đảm hành quân, bảo vệ kho tàng. Đặc biệt, công binh đang gấp rút hoàn thành chuẩn bị cầu đường theo kế hoạch đã định. Các lực lượng công binh, cao xạ, thông tin tập trung ưu tiên cửa khẩu đường 20 và đường 12, với quyết tâm bảo đảm từ ngày 15/10, các binh chủng chính thức nhập tuyến. Cùng thời gian này, chúng tôi nhận được văn bản chính thức kế hoạch mùa khô 1967 - 1968 vối chỉ tiêu trên giao gấp hai lần mùa khô trước. Trên cơ sở tổ chức lực lượng được củng cố và kế hoạch được phân bổ, đồng thời các khâu chuẩn bị khác cơ bản hoàn tất, tháng 8/1967, Bộ Tư lệnh 559 và Tổng cục Hậu cần tiền phương phối hợp tổ chức diễn tập “chiến dịch vận tải” hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Với cuộc diễn tập này, chúng tôi muốn áp dụng những kinh nghiệm đã được khẳng định, rèn luyện nâng cao trình độ chiến thuật, chiến đấu, trình độ tác nghiệp của bộ đội, kết hợp tạo chân hàng ở tuyến kho hậu cứ Đoàn 559.
Trung tâm địa bàn diễn tập từ ngã ba Khe Giao (Hà Tĩnh) đến Khe Ve (Quảng Bình). Lực lượng vận tải tham gia diễn tập có 560 xe, gồm ba tiểu đoàn xe của Đoàn 559, hai tiểu đoàn xe của Tổng cục Hậu cần tiền phương. Một số tiểu đoàn công binh, thanh niên xung phong của Binh trạm 2 và Binh trạm 12 tham gia bảo đảm cầu đường, bốc dỡ hàng. Năm tiểu đoàn cao xạ, ba đại đội súng máy phòng không đang tác chiến tại chỗ cũng được huy động diễn tập... Thực hành diễn tập, tôi trong “vai” Binh trạm trưởng, các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần thuộc Bộ Tư lệnh 559 và Tổng cục Hậu cần tiền phương đóng “vai” cơ quan binh trạm. Chỉ huy binh trạm xuống trực tiếp chỉ huy trọng điểm. Trên suốt 150 cây số “chiều dài tiến công”, chúng tôi chọn ba trọng điểm tổ chức chỉ huy bộ đội hiệp đồng binh chủng là Khe Giao, La Khê và Khe Ve. Những quy định đường vào, đường ra, điểm tránh nhau, thời gian xe tập kết, xuất phát... đều được triển khai nhịp nhàng, thông nhất như tập huấn. Cuộc diễn tập kéo dài một tháng. Kết quả khá mĩ mãn. Chân hàng được lập tại tổng kho Tuyến 559 hơn 8.200 tấn vật chất. Nhưng cái được quan trọng hơn là chúng tôi đã xây dựng bước đầu điều lệnh chiến dịch, điều lệnh chỉ huy, chiến đấu; công tác chính trị trong tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô chiến dịch.
Trung tuần tháng 10, khi những ngọn gió heo may đầu mùa quật xào xạc trên những tán cây rừng vùng Hương Khê, Chu Lễ..., chúng tôi tiến hành một đợt tổng kiểm tra công tác chuẩn bị lực lượng, trang bị, công tác cầu đường ở hai cửa khẩu đường 12 và đường 20. Những kinh nghiệm của một mùa vận tải chi viện được hội nghị Hương Đô khái quát thành các vấn đề có tính lý luận và sau đó được vận dụng vào diễn tập “chiến dịch vận tải” quy mô vừa, cùng các hoạt động chuẩn bị khác về con người, trang bị, cầu đường... đảm bảo cho chúng tôi chủ động, vững vàng triển khai “chiến dịch nhập tuyến”, góp phần cùng chiến trường thực hiện thắng lợi chủ trương chiến lược mới của Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
(…)
Giờ đây hơn nửa thế kỷ đã qua, khi nghĩ về những ngày đạn bom, nhưng rất đỗi hào hùng ấy, trong tâm thức tôi vẫn lắng đọng một điều: Nếu không có truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái; tựa nhau khi “tốỉ lửa tắt đèn”, “lá lành đùm lá rách” hình thành từ hàng nghìn năm lịch sử ở từng cộng đồng xã thôn Việt Nam; nếu không có những tế bào đang độ manh nha của Chủ nghĩa Xã hội, Chủ nghĩa Cộng sản là hợp tác xã nông nghiệp - con đẻ của chính sách hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng... liệu miền Bắc có trụ vững, có làm tròn nghĩa vụ đối với chiến trường được không? Điều khẳng định là: hàng triệu người con đất Bắc rất yên lòng, dồn hết tâm lực cho cuộc sống mái với quân thù trên chiến trường khi có được hậu phương là điểm tựa vững vàng về cả tinh thần lẫn vật chất... Thật tự hào, tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn”.
Bình An
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hà Tĩnh là một trong những địa bàn có vị trí chiến lược, quan trọng đối với Quân khu 4 và của cả nước; là đầu mối giao thông chủ yếu để chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Bởi vậy, nơi đây trở thành một trong những khu vực trọng điểm đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trên mặt trận giao thông vận tải. Những đóng góp của quân và dân Hà Tĩnh trên mặt trận giao thông vận tải chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965-1972) đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, Hà Tĩnh là một vùng đất nhỏ hẹp, có địa hình rất đa dạng và phức tạp; đồi núi chiếm 80% diện tích toàn tỉnh; hệ thống sông ngòi khá dày đặc và đều có đặc điểm chung là chiều dài ngắn, các sông chính có độ dài hơn 500km; ngoài ra, có rất nhiều nhánh sông nhỏ, bao gồm cả sông tự nhiên và sông đào. Với đặc điểm đó, giao thông ở Hà Tĩnh dễ bị chia cắt, nhất là khi gặp các tình huống bất lợi xảy ra như mưa gió, bão lụt hoặc khi bị địch đánh phá.
Hà Tĩnh là huyết mạch giao thông quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với miền Bắc, quân và dân Hà Tĩnh bắt tay vào khôi phục lại hệ thống giao thông cũ hoặc bị hư hỏng do chiến tranh. Trong vòng 10 năm xây dựng hòa bình (1954 - 1964), với sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, Hà Tĩnh đã tiến hành nhiều biện pháp góp phần khôi phục, sửa chữa và làm mới các đường giao thông trong tỉnh. Hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt bắt đầu được sửa chữa tương đối hoàn chỉnh; các phương tiện vận tải và nguồn nhân lực, vật lực khá dồi dào. Tuy nhiên, với điểm xuất phát thấp của nền kinh tế, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, hệ thống giao thông vận tải, nhất là đường sắt chưa được khôi phục toàn diện, đường thủy thì mới khai thác được một số đoạn trong mùa nước ổn định, còn phần lớn sông hẹp và cạn, luồng lạch chưa được nạo vét. Trong khi đó, các tuyến đường bộ tuy có phát huy được vận chuyển, nhưng vẫn còn nhiều điểm yếu kém như: đường thường độc tuyến, nền đường thấp, mặt đường hẹp, cầu trọng tải nhỏ, nhiều sông suối cắt ngang, lại đi qua nhiều eo núi, đồng trũng. Cầu cống phần lớn làm tạm, tải trọng thấp, mật độ cầu cống lớn. Chỉ tính riêng trên các trục đường chính với tổng chiều dài 275km, đường số 1, 8, 15 đã có 178 chiếc cầu cống lớn nhỏ với chiều dài 2.123 mét, bình quân 1 km đường bộ có 7,5 cầu cống(1). Điều đó cho thấy, rất khó khăn cho công tác bảo đảm giao thông vận tải khi có thiên tai, địch họa xảy ra. Hơn nữa, trình độ tổ chức, chỉ huy điều hành, lực lượng, phương tiện kỹ thuật của ngành giao thông vận tải của tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Tính đến cuối năm 1964, số kỹ sư và nhân viên kỹ thuật của ngành giao thông vận tải của tỉnh Hà Tĩnh chỉ có khoảng trên 10 người, cùng với khoảng 47 chiếc ô tô vận tải, 327 tàu thuyền, lượng vật tư kỹ thuật dự phòng của ngành giao thông vận tải rất mỏng(2).
Đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đứng trước nguy cơ thất bại, đế quốc Mỹ quyết định chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân đội vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam; đồng thời, tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Trong tháng 2 và 3/1965, với các chiến dịch “Mũi lao lửa” và “Sấm rền”, đế quốc Mỹ đã sử dụng hàng trăm chiếc máy bay đánh phá vào Vĩnh Linh, Quảng Bình, Nghệ An. Riêng Hà Tĩnh trong ngày 23/3/1965, Mỹ đã huy động 8 máy bay chia thành 3 hướng đến ném bom, bắn tên lửa xuống trạm quan sát hải quân, đồn 112 công an vũ trang. Tiếp đến, ngày 26/3/1965, Mỹ lại sử sụng 26 chiếc máy bay, chia thành nhiều tốp từ hướng tây lao xuống bắn phá núi Nài và khu vực xung quanh. Đầu tháng 4/1965, máy bay Mỹ chuyển sang đánh phá các mục tiêu giao thông vận tải, kinh tế và dân cư. Ngày 10/4/1965, máy bay Mỹ đánh sập cầu Nước Sốt trên đường số 8. Đây là chiếc cầu bị đánh hỏng đầu tiên ở Hà Tĩnh trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Từ ngày 10/4 đến ngày 7/7/1965, máy bay Mỹ đánh vào toàn bộ cầu, cống trên các tuyến đường số 1, số 8 và số 15 ở Hà Tĩnh. Đến ngày 25/10/1965, toàn bộ hệ thống cầu (trừ Đò Trai) và cống lớn trên các đường quốc lộ và tỉnh lộ Hà Tĩnh đều bị đánh hỏng.
Thấy rõ những nhược điểm của hệ thống giao thông vận tải và những thiệt hại do đế quốc Mỹ gây ra, Tỉnh ủy Hà Tĩnh chú trọng làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm giao thông vận tải. Trong hai ngày 17 và 18/5/1965, Hội nghị Ban Chấp hành Tỉnh ủy mở rộng bàn chuyên đề về công tác bảo đảm giao thông vận tải. Hội nghị khẳng định: “Bảo đảm giao thông vận tải là nhiệm vụ trung tâm số 1 của Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh; dù có hi sinh đổ máu cũng phải đảm bảo được giao thông vận tải; tìm mọi biện pháp để thông đường, thông xe”(3). Tại Hội nghị, Ban Chấp hành Tỉnh ủy ra nghị quyết thành lập Đảng ủy Tỉnh đội, quyết định thành lập Ban đảm bảo giao thông vận tải ở các cấp do đồng chí Chủ tịch Ủy ban Hành chính làm Trưởng ban; đồng thời, thành lập lực lượng thanh niên xung phong và các đội chủ lực giao thông ở các huyện làm lực lượng cơ động, bảo đảm giao thông vận tải trên các địa bàn trọng yếu; bổ sung một số đồng chí vào Thường vụ Tỉnh ủy, điều động một số cán bộ tăng cường cho ngành giao thông vận tải. Trên cơ sở đó, tháng 6/1965, Tổng đội thanh niên xung phong 25 được thành lập vào chiến trường miền Nam phục vụ trực tiếp cho chiến đấu; tiếp đó, các tổng đội thanh niên xung phong 55 và 53 cũng được thành lập.
Thanh niên xung phong tham gia sửa đường trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Được sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ban đảm bảo giao thông ở các cấp, lực lượng bảo đảm giao thông vận tải ở Hà Tĩnh có bước phát triển về mọi mặt. Các công ty cầu, công ty vận tải ô tô, công ty vận tải đường biển, đường sông, các xí nghiệp đóng tàu, thuyền, phà phao được củng cố và thành lập. Về tổ chức chỉ đạo, Tỉnh lập ra các Ban bảo đảm giao thông vận tải từ tỉnh đến huyện, xã để giúp cho cấp ủy, chính quyền tổ chức, thực hiện nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải theo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Tỉnh ủy và Ủy ban Hành chính tỉnh. Ban Thường vụ là cơ quan thường trực của cấp ủy các cấp trực tiếp theo dõi, nắm chắc tình hình diễn biến của từng địa phương, đơn vị, đưa ra các phương án chỉ đạo kịp thời. Ngành giao thông vận tải Hà Tĩnh được kiện toàn, bổ sung đủ cán bộ chủ trì, cán bộ chuyên môn kỹ thuật; đồng thời, tổ chức thêm lực lượng xung kích trong công tác giao thông vận tải, gồm: Hai tổng đội thanh niên xung phong, 15 đại đội chủ lực giao thông ở các huyện, 4 đơn vị sản xuất công cụ bảo đảm giao thông, với quân số hơn 1 vạn người. Ngoài ra, ngành còn mở rộng, tăng cường thiết bị, vật tư, quân số cho xí nghiệp sửa chữa ô tô, để giải quyết phương tiện chủ yếu cho công tác đảm bảo giao thông vận tải(4). Bộ giao thông vận tải chi viện cho Hà Tĩnh máy công cụ, vật tư phương tiện, cán bộ, các công nhân viên kỹ thuật lành nghề để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải trên địa bàn tỉnh.
Từ ngày 8 – 10/10/1965, Ban Chấp hành Tỉnh họp Hội nghị bàn về nhiệm vụ đánh địch. Nhận định về âm mưu của địch, Hội nghị nêu rõ: “Âm mưu sắp tới của chúng sẽ đánh phá với quy mô lớn hơn, ác liệt hơn”(5); do đó, đề ra nhiệm vụ cho quân và dân Hà Tĩnh phải luôn luôn đề cao cảnh giác, phát huy khí thế chiến thắng, tăng cường công tác phòng thủ trị an, tiếp tục đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Hội nghị đi đến quyết định tổ chức và phát động rộng rãi phong trào toàn dân làm giao thông vận tải; đề nghị Trung ương chi viện để mở thêm các tuyến đường ở phía nam và tây nam.
Cũng trong thời kỳ này, do địch tập trung đánh phá cầu cống và các bến sông, bến phà, tạo nên những điểm tắc nghẹn trên các tuyến giao thông… Do vậy, công tác vượt sông được xác định là nhiệm vụ đột xuất số 1 trên mặt trận bảo đảm vận tải. Để có đủ phương tiện, vật tư đảm bảo vượt sông, Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh giao cho Ngành Giao thông vận tải nghiên cứu đóng phà phao; ngành Lâm nghiệp cung cấp gỗ và các vật liệu khác; Ban chỉ huy Tỉnh đội, trực tiếp là Ban chỉ huy Công binh, điều hành các bến phà. Mỗi bến phà có 1-2 trung đội đảm nhiệm, quân số nơi thấp nhất là 30 người, nhiều nhất là 80 người vừa làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông, vừa thường trực chiến đấu đánh máy bay địch, bảo vệ hàng hóa, phương tiện vận tải, bến bãi. Ban đầu, các đơn vị tổ chức vượt sông bằng phương pháp kéo phà bằng tay, sau đó cải tiến làm cầu phao và có cầu dẫn ở hai đầu bến, bảo đảm xe có trọng tải lớn đi qua được an toàn thuận lợi, lúc địch đánh phá có thể tháo dỡ di chuyển cơ động nhanh. Khi cần vượt sông, việc lắp ghép cũng đơn giản, thuận tiện và phù hợp với điều kiện nước thủy triều lên xuống. Với phương pháp này, vừa mang lại hiệu suất cao, vừa bảo đảm an toàn, đỡ tốn sức lao động. Trước đây, một đêm phải huy động từ 10 - 15 người kéo phà, nay chỉ cần 5-7 người phụ trách ở hai đầu bến. Lưu lượng xe tăng gấp 4-5 lần so với thời gian trước(6). Với biện pháp này, lưu lượng qua phà mỗi đêm ở một bến từ 200 đến 400 chiếc tăng lên 400 - 450 chiếc. Thời gian một chuyến phà qua sông giảm đi 2 lần(7). Ngoài việc tổ chức giải quyết khâu vượt sông, tỉnh còn tổ chức lực lượng rà phá bom mìn, giải tỏa các trọng điểm và giải quyết tốt việc ứng cứu giao thông, như: san lấp hố bom, làm cầu vượt qua hố bom, đi đôi với sửa chữa cầu đường và làm thêm đường mới, đường vòng tránh, cứu xe, cứu hàng, gác đèn, điều chỉnh luồng lạch. Công tác bảo đảm giao thông vận tải được các địa phương thực hiện một cách triệt để và sáng tạo. Tiêu biểu là Kỳ Anh đã “sớm trở thành lá cờ đầu của tỉnh, của miền Bắc về công tác bảm đảm giao thông vận tải”(8).
Trong thời gian cuối tháng 12/1965, chớp thời cơ Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam trong vòng 36 ngày để hoàn thiện “thiện chí trong hòa bình”, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã phát động chiến dịch Quang Trung, huy động quân và dân ra sức làm giao thông vận tải. Đã có hơn 10 vạn lượt người, cùng các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy từ tỉnh đến xã ra mặt đường, vừa làm giao thông vận tải, vừa vui tết đón xuân. Tính chung trong vòng 1 tháng, quân và dân Hà Tĩnh đã nâng cấp, sửa chữa 75km đường cũ, đường tránh, củng cố làm mới thêm các bến vượt sông, vận chuyển vào Quảng Bình 14 vạn tấn và tiếp nhận từ phía Bắc đưa về tỉnh 3 vạn tấn hàng hóa.
Ngày 31/1/1966, không quân Mỹ đánh phá trở lại Hà Tĩnh. Từ cuối tháng 2 năm 1966, hải quân Mỹ dùng pháo trên các tàu chiến bắn vào đất liền. Các xã ven biển của huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh bị pháo kích thường xuyên. Mục đích đánh phá của hải quân Mỹ là uy hiếp tinh thần nhân dân các xã ven biển, đánh vào các trận địa pháo, cầu cống trên quốc lộ số 1. Với tinh thần cảnh giác cao độ, quân và dân Hà Tĩnh đã đánh trả nhiều trận đạt hiệu suất chiến đấu cao, đó là trận đánh ngày 24/3/1966 của cán bộ, chiến sĩ đồn 93 công an vũ trang; bắn cháy một chiếc tàu hộ tống trên vùng biển Can Lộc của Đại đội 444 Pháo binh ngày 24/4/1966; trận tiêu diệt 1 máy bay AD6 của Tiểu đoàn 61 ngày 27/4/1966; trận chiến đấu của đội dân quân trực chiến xã Đức Ninh (Đức Thọ) bắn rơi 1 máy bay của Mỹ ngày 18/8/1966. Như vậy, tính đến tháng 8/1966, quân và dân Hà Tĩnh “đã bắn rơi cộng tất cả 100 máy bay Mỹ”(9). Đó là một chiến thắng vẻ vang của quân và dân Hà Tĩnh trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ phá hoại.
Cùng với đó, được sự quan tâm giúp đỡ về lực lượng, phương tiện và vật tư của Bộ Giao thông vận tải, các tuyến đường 18, 21, 22, 23, 24, 28 lần lượt được thi công. Huyện Cẩm Xuyên mở đường từ cầu Na đi Cẩm Bình, Cẩm Huy, huyện Hương Khê mở đường Lộc Yên đi Hương Châu. Lực lượng tham gia mở đường có tổng đội thanh niên xung phong 53, 55 và các đơn vị chủ lực của ngành giao thông tỉnh. Ngoài ra, cấp trên tăng cường cho một tổng đội thanh niên xung phong Hà Nội, Hải Phòng, 1 đại đội xe máy, 2 tiểu đoàn công binh của Quân khu 4 và Đoàn 559. Công cuộc mở đường ở Hà Tĩnh còn có sự đóng góp của nhân dân toàn tỉnh. Do vậy, tiến độ thi công luôn luôn vượt kế hoạch, bất chấp mọi thủ đoạn đánh phá ác liệt của quân địch. Đến cuối năm 1966, các tuyến đường mới lần lượt thông xe, với tổng số chiều dài xấp xỉ bằng hai tuyến đường chính (quốc lộ 1 và 8) và các đường tỉnh lộ mà thực dân Pháp đã làm trong gần 100 năm. Việc đưa các tuyến đường mới, đường tránh vào sử dụng đã góp phần quan trọng tạo ra thế trận mới cho công tác bảo đảm giao thông vận tải, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Phát hiện ra những biến đổi trên tuyến giao thông ở Hà Tĩnh, nhất là ở phía nam và tây nam, đế quốc Mỹ đã thay đổi thủ đoạn đánh phá, chúng không đánh liên tục dài ngày vào các điểm xung yếu ở phía nam (Đèo Ngang, cầu Họ, cầu Trung, cầu Rác) và tây nam (Địa Lợi), mà chuyển sang đánh theo chu kỳ, khi tập trung đánh phía bắc, khi tập trung đánh phía nam. Trước thủ đoạn mới của Mỹ, do chưa phân tích, nắm bắt kịp thời quy luật hoạt động của không quân Mỹ, nên trong những tháng cuối năm 1966, Hà Tĩnh đã bị tổn thất về người, phương tiện, hàng hóa và nhà cửa.
Bước vào năm 1967, Bộ Chính trị ra Chỉ thị nhấn mạnh: “Năm 1967 là năm có tầm quan trọng lớn đối với địch cũng như đối với ta. Địch sẽ ra sức tăng cường lực lượng nhằm đánh nhanh thắng nhanh; ta phải cố gắng hơn nữa về mọi mặt, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định”(10). Đúng như dự kiến của ta, Mỹ bắt đầu đẩy mạnh cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân lên nấc thang cao hơn. Trong thời gian này, cùng với những thiệt hại do sự đánh phá của quân Mỹ, Hà Tĩnh còn phải chịu hậu quả nặng nề của thiên tai (đầu năm hạn hán nặng, cuối năm liên tiếp phải hứng chịu 3 cơn bão). Những khó khăn đó đã làm cho tuyến đường vận tải qua Hà Tĩnh bị ách tắc nghiêm trọng, nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất, bảo đảm đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, ngày 20/9/1967, Tỉnh ủy ra nghị quyết tập trung lực lượng quyết thắng giặc Mỹ trên tuyến giao thông vận tải, kịp thời khắc phục khó khăn, đưa Hà Tĩnh vượt qua nhiều thử thách.
Đầu tháng 1/1968, địch tập trung đánh phá cắt đứt đường số 1, đoạn từ Hạ Vàng vào Cổ Ngựa. Sau đó, tập trung máy bay đánh phá dồn dập vào Ngã ba Đồng Lộc, một trọng điểm có tính chất cửa ngõ. Trong vòng từ tháng 4 đến tháng 10/1968, máy bay của Mỹ đánh vào Đồng Lộc tổng cộng 1863 lần với trên 42.990 quả bom các loại. Tổng số lần đánh vào Đồng Lộc bằng tổng số lần đánh vào toàn tỉnh năm 1965, số bom đạn lớn gấp 2 lần. Bình quân 1 tháng, địch đánh 25 ngày; ngày đánh cao nhất 103 lần chiếc, ném 800 quả bom. Trước sự đánh phá quyết liệt của địch, nhận thức rõ vị trí chiến lược của Ngã ba Đồng Lộc, Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh đã tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các địa phương tập trung huy động lực lượng dồn sức cho Ngã ba Đồng Lộc để giải tỏa điểm chốt, giữ vững mạch máu giao thông chiến lược.
Chỉ sau một thời gian ngắn, tỉnh đã điều động một lực lượng lớn gồm 5 đại đội thanh niên xung phong, 3 đại đội chủ lực giao thông, 1 đội cầu, 1 đội xe cơ giới làm nhiệm vụ ứng cứu giải tỏa giao thông. Lực lượng chiến đấu gồm Trung đoàn pháo cao xạ 210 của Bộ và một bộ phận của Tiểu đoàn 30 công binh Quân khu, Tiểu đoàn 8 pháo cao xạ của tỉnh, với quân số khoảng trên 16.000 người. Chưa kể còn có sự tham gia của các lực lượng dân quân du kích và nhân dân các xã Đồng Lộc, Quang Lộc, Mỹ Lộc, Thượng Lộc. Ban chỉ huy giải tỏa điểm chốt Đồng Lộc được thành lập. Các tổ quan sát bom, cầm tiêu, rà phá bom, ứng cứu cầu đường cùng với mạng lưới thông tin liên lạc, lực lượng điều hành phương tiện giao thông, giữ gìn trật tự an ninh tại khu vực Ngã ba Đồng Lộc được hình thành và bắt tay ngay vào công việc với mục tiêu “thông tuyến, thông xe nhanh nhất”. Công việc giải tỏa điểm chốt được tiến hành khẩn trương, với nhiều biện pháp đồng bộ, tích cực như: vừa đánh máy bay, vừa phát hiện, rà phá bom mìn, san lấp hố bom, sửa chữa cầu đường; đồng thời, phát triển mở rộng thêm các tuyến đường mới, đường vòng tránh…
Do vậy, mặc dù bị địch tập trung đánh phá ác liệt và tàn bạo, nhưng giao thông vận tải ở Hà Tĩnh vẫn được giữ vững, bảo đảm cho tuyến chi viện chiến lược từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam thông suốt. Riêng ở Đồng Lộc, trong 7 tháng kiên cường bám trụ, quân và dân nơi đây đã hiệp đồng chiến đấu, bắn rơi 19 máy bay Mỹ, phá 1.780 quả bom nổ chậm, bom từ trường; huy động 97.240 ngày công để san lấp hố bom, sửa chữa cầu đường và làm thêm tuyến đường mới dài gần 6km, từ ngã ba Khiêm Ích qua Truông Kén đến Bãi Dĩa, làm thất bại hoàn toàn âm mưu cắt đứt con đường vận tải chiến lược Bắc - Nam qua Đồng Lộc của đế quốc Mỹ. Trên trọng điểm ác liệt này, đã có nhiều tập thể, cá nhân nêu cao lòng dũng cảm không sợ hi sinh, như tập thể 10 cô gái thanh niên xung phong Tổng đội 55 đã hi sinh cho tuyến đường khi tuổi đời còn rất trẻ và nhiều tấm gương anh dũng hi sinh để bảo vệ thông suốt tuyến đường, chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ. Thành tích của nhân dân trong công tác bảo đảm giao thông vận tải thật to lớn và kỳ diệu. Trong 4 năm chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968), nhân dân Hà Tĩnh đã góp trên 20 triệu ngày công, đào lấp được 6,5 triệu m³ đất đá, cát sỏi, khai thác hàng chục vạn cây tre, gỗ, nứa, lấp 16.956 hố bom, làm 14 đường xuống bến phà dài 16,28km, đắp 163 đường tránh dài 122km, ghép đá làm 158 đường ngầm dài 18km, cứu 28.246 tấn hàng, 1.113 ô tô bị lún lầy, 428 ô tô bị cháy, 4.233 thuyền bị đắm(11). Con số đã nói lên sức mạnh to lớn của nhân dân Hà Tĩnh trong công tác phục vụ kháng chiến nói chung, bảo đảm giao thông vận tải nói riêng.
Thanh niên xung phong tham gia sửa đường trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Bị thất bại liên tiếp trên cả hai miền Nam, Bắc, trước sức ép của dư luận và nhân dân tiến bộ trên thế giới, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom đánh phá miền Bắc. Tranh thủ điều kiện hòa bình tạm thời, để thúc đẩy sản xuất, bảo đảm giao thông, ngay từ đầu năm 1969, Tỉnh ủy Hà Tĩnh phát động phong trào thi đua cùng “tiến quân ba mũi” (giải phóng giao thông, mở rộng diện tích canh tác, đào đắp thủy lợi nội đồng). Hưởng ứng phong trào, hơn 300 đội rà phá bom ra quân trên các tuyến giao thông và các cánh đồng đã thu được được kết quả lớn, giải phóng được hàng ngàn héc ta ruộng đất. Những cầu cống lớn, nhỏ trên đường 1A, 15A, đường số 8 được sửa chữa, nâng cấp; các điểm nút giao thông ở Thượng Gia, Cổ Ngựa, Đồng Lộc, Linh Cảm… được giải tỏa; toàn tuyến giao thông thủy bộ thông suốt. Với thành công này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng vận tải của Trung ương và địa phương thực hiện chiến dịch vận tải VT5 giành thắng lợi giòn giã. Đã có hơn 132 ngàn tấn hành đi qua địa phận Hà Tĩnh chuyển giao cho Quảng Bình để từ đó tiếp tục đưa vào chiến trường miền Nam. Bên cạnh việc phục vụ chiến dịch VT5, Ty Giao thông vận tải Hà Tĩnh còn vận chuyển được gần 1.600 tấn hàng, huy động 534.625 ngày công phục vụ giao thông trên tuyến đường số 8 sang Lào.
Trong khi miền Bắc tạm thời có hòa bình, thì cuộc chiến đấu trên chiến trường miền Nam diễn ra ngày càng ác liệt. Trước nguy cơ sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ vội vàng “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh, đưa thêm một lực lượng lớn không quân, hải quân vào cuộc chiến, hòng chặn đứng cuộc tiến công của ta. Đúng một tuần sau khi ta mở màn cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Ở Hà Tĩnh, ngày 9/4/ 1972, Mỹ tập trung 180 lần chiếc máy bay đánh xuống cầu Thọ Tường, Cầu Họ và các chân hàng, kho trạm ở dọc đường 1A, 15A và đường số 8. Từ tháng 5 trở đi, chúng huy động hàng trăm tốp máy bay đánh mạnh vào các tuyến đường giao thông. Chỉ trong vòng 1 tháng, chúng đã đánh sập 14 cầu vừa làm lại trên quốc lộ 1A. Bên cạnh đó, chúng dùng thủy lôi phong tỏa cảng Xuân Hải, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu và các tuyến đường sông như sông Lam, La, Ngàn Sâu, Ngàn Phố; các bến phà Linh Cảm, Địa Lợi, Khe Giao… Đặc biệt cuối năm 1972, sau khi trúng cử tổng thống, Níchxơn đã ra lệnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược đánh phá dữ dội xuống Hà Nội và Hải Phòng. Ở Hà Tĩnh, máy bay của Mỹ đã ném xuống gần 53.523 quả bom các loại. Kết hợp với không quân, 32 tàu khu trục, 11 tàu đổ bộ của Mỹ thay nhau bắn phá vào đất liền. Chúng muốn “chẹt cổ họng”, ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam. Nhưng quân và dân Hà Tĩnh vẫn vững vàng giành nhiều thắng lợi to lớn và toàn diện, thông xe, thông tuyến, bảo bệ vững chắc hậu phương.
Rút kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, công tác bảo đảm giao thông có sự chuẩn bị toàn diện về thế trận, rộng khắp. Chỉ sau một thời gian ngắn, lực lượng ứng cứu giao thông phát triển rất nhanh, toàn tỉnh đã có 150 đội rà phá bom gồm 670 người, 200 đội ứng cứu giao thông với gần 1 vạn người, 53 đài quan sát bom, 68 vọng gác và trạm gác đèn điều phối giao thông… Cùng với đó, Ty Giao thông đã phối hợp với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh phân công các địa phương chuẩn bị sẵn sàng đất đá, gỗ tre và lực lượng ứng cứu giao thông. Phong trào toàn dân làm giao thông vận tải phát triển nhanh chóng. Cùng với đó, vận chuyển nhân dân phát triển đến đỉnh cao, khối lượng hàng hóa vận chuyển ngày một nhiều. Nhân dân Hà Tĩnh đã huy động 132 lần toa goòng, 118 đầu xe ô tô, 13 móc, 9 ca nô, 37 xà lan cho công tác vận tải, chuyển vào chiến trường 489.803 tấn hàng; trong đó, vận chuyển bằng đường goòng 1.323 tấn, đường bộ 153.976 tấn, đường thủy 193.000 tấn, còn lại là vận chuyển nhân dân đảm nhiệm(12). Như vậy, dù đế quốc Mỹ đưa cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai lên đến đỉnh điểm(13) của sự tàn bạo, nhưng vẫn không thể bóp nghẹt được ý chí giải phóng miền Nam của quân và dân ta. Trong đó, quân và dân Hà Tĩnh đã góp phần xứng đáng vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, bảo đảm giao thông thông suốt, kịp thời chi viện cho nhân dân miền Nam đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975.
Có thể thấy, trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, quân và dân Hà Tĩnh đã vượt qua bom đạn ác liệt của kẻ thù, kiên cường bám trụ chiến đấu, bảo đảm giao thông thông suốt, kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ. Trên mặt trận bảo đảm giao thông vận tải, nhiều địa danh nổi tiếng như Đồng Lộc, Khe Giao, Linh Cảm, Địa Lợi… đã được lịch sử ghi nhận như một chiến công oanh liệt, biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trở thành niềm tự hào của nhân dân Hà Tĩnh, nhân dân cả nước và nhận dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Trung tá, ThS Lê Văn Thành
Hà Tĩnh là vùng đất địa linh nhân kiệt có truyền thống yêu nước lâu đời, luôn nêu cao tinh thần chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước. Tinh thần này đã được phát huy mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hơn nửa thế kỷ trước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Tĩnh là một trong những địa bàn chiến lược đối với Quân khu 4 và của cả nước, là đầu mối giao thông chủ yếu để chi viện sức người, sức của từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế với các tỉnh Trung, Hạ Lào và Campuchia.
Theo PGS. TS Nguyễn Đình Lê, trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta từng chuẩn bị cả tình huống Mỹ đưa quân đánh ra miền Bắc. Vị trí phía Mỹ tính đổ quân là khu công nghiệp Vũng Áng hiện tại, nơi có cảng biển sâu và dễ cắt trục Bắc – Nam. Trung ương đã dự tính huống này từ năm 1967 sau đó đã lập Đoàn 70 để sẵn sàng đánh địch và từng đưa lực lượng phản gián đặc biệt vào ém cứ ở Hà Tĩnh và Quảng Bình.
Chính vì vị trí đặc biệt của mình, Hà Tĩnh là một trong những khu vực trọng điểm đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trên mặt trận giao thông vận tải. Chúng đã nhiều lần tung gián điệp biệt kích, thám báo hoạt động chống phá, sử dụng trên 4 vạn lượt chiếc máy bay (kể cả máy bay ném bom chiến lược B52, cánh cụp cánh xòe F111) và hàng trăm tàu chiến trên biển ngày đêm đánh phá mảnh đất này với hơn 200.000 tấn bom, đạn các loại.
Trước những khó khăn, thử thách và bom đạn ác liệt của kẻ thù, quân và dân Hà Tĩnh đã kiên cường bám trụ địa bàn vừa sản xuất, vừa chiến đấu, bảo đảm giao thông vận tải, chi viện cho chiến trường miền Nam với tinh thần “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Những hình ảnh người nông dân gặt lúa dưới ánh pháo sáng địch, những công nhân tay búa tay súng bảo vệ nhà máy công xưởng, các em nhỏ đội mũ rơm đến trường, phiên chợ đêm lặng lẽ, lúa vẫn xanh bên hố bom thù, bà con ngư dân vẫn vượt sóng ra khơi bám biển, đêm đêm hàng trăm xe vẫn nối đuôi nhau chở hàng ra tuyền tuyến mặc sự bủa vây của bom đạn địch... càng nói lên bản lĩnh chính trị, tình cảm, quyết tâm và trách nhiệm của quân và dân Hà Tĩnh sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, vì cả nước.
Thanh niên xung phong lấp hố bom, sửa đường trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu
Thông đường cho những chuyến xe qua
Theo sách Lịch sử giao thông vận tải Hà Tĩnh, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, hệ thống giao thông trên địa bàn Hà Tĩnh đã được mở rộng liên tục. Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, quân và dân Hà Tĩnh đã đào đắp hàng triệu m3 đất, đá để san lấp hố bom, khắc phục cầu đường; mở nhiều tuyến đường mới với chiều dài hơn 500km, sửa chữa gần 700km đường bị đánh phá, rà phá hàng chục ngàn quả bom, đạn các loại, giữ vững mạch máu giao thông, chi viện kịp thời cho các chiến trường đánh Mỹ.
Quốc lộ 1 từ Bến Thủy vào Bãi Vọt dài 15km có 2 cầu và 10km nằm ngoài đê La Giang, mùa mưa lũ thường ngập chìm dưới nước. Đường chạy men theo chân núi Hồng Lĩnh, một phía là vách đá, một phía là sông Lam, các phương tiện vận tải khó tránh khỏi tầm phong tỏa, khống chế của máy bay Mỹ. Để khắc phục tình trạng đó, tháng 7/1965 Ty Giao thông Vận tải huy động Đội công trình 1 và Tổng đội Thanh niên xung phong 55 chịu trách nhiệm thi công đường 18 chạy phía đông núi Hồng Lĩnh, song song với Quốc lộ 1. Ba trăm cán bộ công nhân giao thông vận tải và dân công đã lao động cật lực, đến cuối tháng 8/1965 thì thông xe.
Tuyến đường 23 nối Tỉnh lộ 2 với Tỉnh lộ 3 chỉ dài 6km nhưng có vị trí quan trọng. Khi cầu Song, cầu Nga, cầu Cày, cầu Đông gặp sự cố, các phương tiện vận tải sẽ theo đường 23 lên Quốc lộ 15 vào đường 21 hoặc đi tiếp Quốc lộ 15 lên Hương Khê. Các lực lượng chủ lực giao thông vận tải thi công trong vòng 2 tháng thì xong đường 23. Các phương tiện vận tải theo đường này sẽ tránh được các Kỳ Tây (Kỳ Anh), đường 24 nối liền Quốc lộ 1 với đường 22-câu, công trên tuyến Quốc lộ 1 từ Cẩm Xuyên vào Đèo Ngang Bộ Giao thông vận tải và Ty Giao thông vận tải Hà Tĩnh huy động Đội công trình và Đội cơ giới chịu trách nhiệm thi công, cuối năm 1966 th hoàn thành tuyến đường này.
Đường 26 nối từ Thạch Bình (Thạch Hà) qua Cẩm Bình vào Cẩm Huy (Cẩm Xuyên) do lực lượng giao thông và nhân dân huyện Cẩm Xuyên thi công. Đường 26 tránh cầu Na, cầu Hữu Quyền trên Quốc lộ 1. Đường 28 khởi phát từ Phú Lộc (Can Lộc) men theo chân núi Trà Sơn, gần như song song với đường số 8, nối với Linh Cảm do đội Công trình 5 và lực lượng thanh niên xung phong đảm nhận thi công. Các phương tiện vận tải theo đường này tránh được các trọng điểm cầu Chợ Giấy, công 19, cầu Đôi ở Đức Long (Đức Thọ).
Trong khi đó, đường 31 khởi phát từ Địa Lợi qua Hương Khê, men theo chân đồi về Lộc Yên nối vào đường 15. Đây là tuyến đường tránh cầu Trộ, cầu Tân, cầu Vạn- những trọng điểm đánh phá của địch, nên có lưu lượng xe vận tải qua lại rất lớn. Ngoài các tuyến đường trên, lực lượng giao thông vận tải còn mở đường 11 đi từ Cẩm Dương lên thị trấn Cẩm Xuyên, đường 58 từ đường 18 vòng vào chân núi Hồng Lĩnh, qua Thiên Lộc về Nghèn.
Tháng 10/1965, Tỉnh ủy Hà Tĩnh ra Nghị quyết phát động phong trào toàn dân làm giao thông vận tải, tổ chức lực lượng ba thứ quân đánh máy bay địch và mở đường mới phá thế độc tuyến, đến giữa năm 1967, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã làm được 11 con đường mới ở phía Tây Nam và phía Bắc tỉnh dài 259km. Ngoài ra nhân dân cùng lực lượng giao thông vận tải và thanh niên xung phong làm mới 121km đường xế, đường vòng tránh, đường xuống các bến phà. Trong những tháng ngày mở đường lịch sử ấy đã có biết bao hy sinh mất mát, không chỉ đối với các lực lượng trực tiếp thi công mà cả nhân dân những làng xóm có đường mới chạy qua.
Mưa bom bão đạn
Từ tháng 2/1965 đến tháng 10/1968, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, quân và dân Hà Tĩnh đã vượt qua bao khó khăn gian khổ, kiên cường chịu đựng những tổn thất hy sinh to lớn vì “độc lập, tự do của Tổ quốc”. Suốt 4 năm ấy, máy bay Mỹ đã đánh phá Hà Tĩnh 32.090 lần với 296.009 quả bom tàu chiến Mỹ đã pháo kích 4.900 lần với 149.000 quả đạn 12.800 người đã hy sinh, 12.800 người bị thương, 29.000 ngôi nhà bị cháy và nhiều tổn thất to lớn về kinh tế, văn hoá xã hội. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo các Cục,Viện Bộ Giao thông vận tải và sự tăng cường phương tiện, lực lượng giao thông vận tải Hà Tĩnh đã cùng toàn Đảng, toàn dân đoàn kết nhất trí, kiên trì vượt qua mọi thử thách, tự nguyện hy sinh đảm bảo mạch máu giao thông vận tải luôn thông suốt, góp phần to lớn vào chiến thắng chung của đất nước và công cuộc xây dựng phát triển kinh tế của tỉnh.
Trong 7 tháng từ tháng 4 đến tháng 10/1968, máy bay địch đánh vào Đồng Lộc 1.863 lần với trên 42.990 quả bom các loại. Tổng số lần đánh vào Đồng Lộc thời gian này bằng tổng số lần chúng đánh vào toàn tỉnh năm 1965, còn số bom đạn thì gấp 2 lần, bình quân mỗi tháng địch đánh 25 ngày. Riêng ngày 15/7/1968, Mỹ đánh tới 103 lần với 800 quả bom. Các xã chung quanh khu vực Đồng Lộc bị bom đạn Mỹ giết hại 336 người, bị thương 346 người, cháy 3.738 ngôi nhà, 2.400 tấn gạo, chết 420 con trâu, bò. Nhân dân Đồng Lộc phải bỏ nhà cửa sơ tán lên vùng rừng ở Cửa Thờ, Trại Tiểu, khi thi công tuyến đường tránh 70B, lại sơ tán một lần nữa, số vào sâu trong rừng, số ra Thượng Lộc, Vĩnh Lộc.
Khi giặc Mỹ thực hiện lối đánh có tính chất hủy diệt xuống 20 xã và 45 hợp tác xã ở ba huyện Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, nhiều vùng, miền khác trong tỉnh cũng chìm trong khói lửa. Tháng 8/1968, chúng đánh vào xã Đức Lập (Đức Thọ) làm cháy 5 ô tô, 100 ngôi nhà, làm chết 19 người. Ngày 23 - 8 chúng đánh vào Đức Phúc (Đức Thọ) cháy 32 ô tô, 300 tấn gạo, 200 ngôi nhà, chết 27 người. Xã Đức Tân (Đức Thọ) bị đánh liên tiếp 40 lần. chết 124 người, bị thương 154 người, 95% nhà cửa bị phá hỏng.
Từ giữa tháng 9/1968, mưa to kéo dài nhiều ngày gây ngập lụt trên diện rộng. Các tuyến đường giao thông quan trọng Quốc lộ 1, Quốc lộ 8, Quốc lộ 15 nhiều đoạn bị ngập và bị xói lở. Các tuyến đường mới mở như Bãi Dịa - Truông Kén, Cống 19 - Khe Út và từ Ngã ba Đồng Lộc đến Khe Giao bị hố bom cắt đứt. Lầy thụt xe không qua được. Tuyến vận tải đường bộ qua địa bàn Hà Tĩnh bị tắc nghẽn. Lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải: đồng chí Dương Bạch Liên, đồng chí Đào Vi Cảo, và nhiều đồng chí khác đã có mặt ở Hà Tĩnh. Bộ Giao thông vận tải còn điều động các đ/c lãnh đạo Ty Giao thông vận tải các tỉnh phía Bắc như Bắc Giang, Quảng Ninh, Hà Tây... vào giúp chỉ đạo bảo đảm giao thông trên đất Hà Tĩnh. Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã họp khẩn cấp và chỉ đạo Ban Chỉ huy đảm bảo giao thông vận tải Hà Tĩnh phát động phong trào vận tải nhân dân. Hàng ngày người dân gánh bộ, thồ hàng bằng xe đạp theo cung trạm từ phía Bắc vào phía Nam giao hàng cho Quảng Bình. Chủ trương vận tải nhân dân của Hà Tĩnh được Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Giao thông vận tải đồng tình.
Tuy nhiên, Hà Tĩnh vẫn tiếp tục là mục tiêu đánh phá trong các năm tiếp theo. Ngày 9/4/1972, Mỹ tập trung 180 lần/chiếc máy bay đánh cầu Thọ Tường trên tuyến đường sắt từ Bắc vào Nam, đánh Cầu Họ trên Quốc lộ 1, đánh vào các chân hàng kho, trạm dọc Quốc lộ 1, Quốc lộ 15 và Quốc lộ 8. Ngày 10/4/1972 Mỹ dùng máy bay B52 đánh phá vùng Bến Thủy.
Giao thông vận tải Hà Tĩnh bắt đầu chống chọi với sức mạnh tàn bạo của bom đạn Mỹ. Trong vòng 1 tháng, 14 cầu vừa sửa chữa lại trên Quốc lộ 1 và tất cả các cầu lớn, nhỏ trên tuyến đường Goòng Đức Thọ - Minh Cầm đã bị đánh sập. Khác với cuộc đánh phá lần thứ nhất, lần này Mỹ không đánh liên tục, đánh dứt điểm vào vị trí xung yếu Thượng Gia - Cổ Ngựa, Ngã ba Đồng Lộc, Ngã ba Linh Cảm mà tập trung đánh vào Cống 19 trên Quốc lộ 15, dọc tuyến 70A, đoạn K19 -K62 trên đường 22. Trong 9 tháng Mỹ đánh phá giao thông Hà Tĩnh 415 điểm, 3.188 trận với 47.962 quả bom các loại, bằng 2/3 số trận và số bom đánh trên toàn tỉnh, làm hư hỏng 129 phà, 13 tàu xuồng, 8 sà lan, 4 ca nô, 175 thuyền vận tải, làm cháy 259 xe ô tô, sập 53 cầu đường sắt, 38 cầu đường bộ, mức độ thiệt hại gần bằng 4 năm chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.
Từ tháng 5/1972, Mỹ dùng thủy lôi phong tỏa cảng Xuân Hải, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu và các tuyến đường sông. Sau 12 ngày đêm tập trung B52 đánh phá thủ đô Hà Nội bị thất bại thảm hại (từ 18-30/12/1972), đế quốc Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, mở lại cuộc đàm phán ở Paris. Thế nhưng từ ngày 01 đến ngày 15-01-1973, chúng điên cuồng đánh phá từ vĩ tuyến 20 trở vào. Ở Hà Tĩnh ngày 07/01/1973 chúng dùng máy bay B52 ném bom xuống sân bay dã chiến 723 (Cẩm Xuyên) làm 34 công nhân bị chết và 48 người bị thương. Tiếp đó, tiếp tục 11 lần chúng cho máy bay xâm phạm bầu trời và 21 vụ tàu biệt kích xâm phạm vùng biển Hà Tĩnh. Quân dân Hà Tĩnh kiên cường chiến đấu đã bắn rơi 2 máy bay Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông, vận chuyển hàng ra tiền tuyến.
Với ý chí và tinh thần: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Một tấc không đi, một ly không rời”, “Sống bám đường, chết kiên cường, dũng cảm”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Máu có thể đổ nhưng đường không thể tắc”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”... đã trở thành quyết tâm và phương châm hành động, gắn liền với những chiến công oanh liệt của mảnh đất, con người Hà Tĩnh anh hùng như: Bến Thủy, Linh Cảm, Địa Lợi, Đèo Ngang, Ngã ba Đồng Lộc, Làng K130 (Tiến Lộc - Can Lộc), Núi Nài (TP Hà Tĩnh); Tiểu đoàn 8 phòng không, Tiểu đội nữ dân quân Kỳ Phương (Kỳ Anh), Trung đội súng máy 12,7 ly dân quân thị xã Hà Tĩnh, Trung đội dân quân pháo binh Xuân Liên (Nghi Xuân); Anh hùng Dương Chí Uyển, La Thị Tám, chuyên gia phá bom nổ chậm Vương Đình Nhỏ, nữ dân quân bắt sống giặc lái Mỹ Nguyễn Thị Kim Lai… và đặc biệt sự hy sinh anh dũng của 10 cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tô thắm truyền thống anh hùng của quê hương Hà Tĩnh và dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quân và dân Hà Tĩnh đã bắn rơi 267 máy bay các loại, bắn chìm, bắn cháy 34 tàu chiến, tiêu diệt và bắt sống nhiều giặc lái, nhiều tổ, toán biệt kích, thám báo. Trong đó, tiêu biểu nhất phải kể đến trận đầu thắng Mỹ 26/3/1965, quân và dân ta đã bắn rơi 9 máy bay Mỹ ngay trên bầu trời Thành Sen. Đây thực sự là chiến công đặc biệt xuất sắc, có ý nghĩa hết sức to lớn nhằm cổ vũ mạnh mẽ khí thế quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân ta, tạo tiền đề vững chắc cho quân và dân Hà Tĩnh lập công xuất sắc trong suốt quá trình chống Mỹ cứu nước.
Để cùng quân - dân cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Hà Tĩnh đã bổ sung một lực lượng lớn cho quân đội gồm 92.913 thanh niên nam, nữ, chiếm hơn 10% dân số, huy động 334.128 dân công hỏa tuyến, 10.636 thanh niên xung phong. Bổ sung cho các chiến trường 21 tiểu đoàn, 15 đại đội bộ đội địa phương. Riêng trong quý I/1975, Lực lượng vũ trang và Nhân dân Hà Tĩnh đã huy động 3 trung đoàn, 2 tiểu đoàn, 5 đại đội, với 8.091 cán bộ, chiến sỹ và 14.901 tân binh lên đường vào Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975. Các đơn vị lực lượng vũ trang Hà Tĩnh đã tham gia chiến đấu trên các chiến trường đã đánh hàng trăm trận, tiêu diệt 1550 tên địch, bắn rơi 13 máy bay, phá hủy 26 xe quân sự, thu nhiều phương tiện vũ khí của địch.
Ghi nhận những đóng góp, cống hiến to lớn của quân và dân Hà Tĩnh trong kháng chiến giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước đã phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân cho 213 tập thể, 37 cá nhân; 1.853 Bà mẹ Việt Nam anh hùng; tặng thưởng 3 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc (nhất, nhì, ba), 1 Huân chương Chiến công hạng Ba và nhiều phần thưởng cao quý khác cho nhiều tập thể, cá nhân.
Hà Nhân (Tổng hợp)
Đại thủy nông Kẻ Gỗ - thành quả to lớn tổng hợp sức mạnh ý Đảng - lòng Dân của Nghệ Tĩnh và cả nước những năm 1976 - 1980 thời kỳ đầu xây dựng đất nước sau chiến tranh. Công trình được thực hiện khẩn trương, quyết liệt với tinh thần “có một viên gạch, một lao động cũng dành cho xây dựng Kẻ Gỗ”. Phát huy tinh thần lao động sáng tạo, ý chí, quyết tâm vượt qua gian khó trong quá trình xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ, những năm qua, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh luôn đoàn kết, nỗ lực vươn lên, đạt được nhiều kết quả nổi bật trên tất cả các lĩnh vực, phấn đấu đưa Hà Tĩnh phát triển nhanh và bền vững.
Đại công trình hồ Kẻ Gỗ, biểu tượng của ý Đảng với lòng Dân
Nằm trên địa phận 3 huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và Hương Khê, công trình hồ Kẻ Gỗ làm nhiệm vụ điều tiết nước giảm lũ cho vùng hạ du, vừa phục vụ tưới cho vùng sản xuất lúa rộng lớn của huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà và thành phố Hà Tĩnh; được thiết kế có lưu vực rộng 223km2, lòng hồ rộng 2,9km, dài 22km, trữ lượng nước 345 triệu m3, có khả năng tưới cho 24.136ha, diện tích thực tưới là 15.000ha; công trình thủy lợi gắn với thủy điện có công suất khoảng 2.300kW; là hồ nuôi, thả cá với sản lượng 800 đến 1.000 tấn/năm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là mong ước qua nhiều thế hệ lãnh đạo và Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, nhất là các địa phương Cẩm Xuyên, Thạch Hà, thị xã Hà Tĩnh ngày đó. Theo tài liệu từ thời Pháp thuộc, năm 1934 nhà cầm quyền thuộc địa đã cho khảo sát để đắp đập ở vùng Kẻ Gỗ, nhưng vì nhiều lý do nên công trình không được triển khai. Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Đảng bộ Hà Tĩnh khi bàn phương án thủy lợi đã đề cập đến việc xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ nhưng do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên việc này phải dừng lại. Đến năm 1967, do yêu cầu cấp thiết của việc giảm thiểu lũ lụt và phục vụ tưới, tiêu, sản xuất nông nghiệp của vùng hạ du, Bộ Thủy lợi đã cho tiến hành khảo sát Kẻ Gỗ, đến tháng 12/1974, Chính phủ ra quyết định phê chuẩn nhiệm vụ thiết kế hồ chứa nước Kẻ Gỗ .
Từ tháng 02/1975, tỉnh Hà Tĩnh đã thành lập Ban chỉ huy công trường, làm 17km đường giao thông, xây dựng hệ thống thông tin, liên lạc, sản xuất vật liệu xây dựng (cát, sỏi), chuẩn bị thủ tục, tổ chức lực lượng lao động và các phương tiện kỹ thuật cho việc xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ. Đến cuối năm 1975, tỉnh đã huy động 2.500 lao động thủ công làm kênh mương và đưa phương tiện kỹ thuật hoạt động trên khu vực đầu mối. Ngày 26/3/1976, công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ chính thức được khởi công.
Để xây dựng hồ Kẻ Gỗ, cùng với hỗ trợ của Trung ương, tỉnh đã huy động hàng chục ngàn lượt lao động từ nhiều địa phương. Các huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên, thị xã Hà Tĩnh vừa trực tiếp lao động vừa làm công tác hậu phương tại chỗ, bảo đảm 62% nhân lực lao động với 2.660.000 ngày công. Cùng với nhân dân địa phương có nhiều lực lượng tham gia thi công . Nhân lực lao động thường xuyên trên công trường là 10.200 người, trong đó có 3.000 thợ kỹ thuật.
Trong thời gian thi công, các lực lượng lao động đã đào đắp gần 11 triệu m¬3 đất, đá; sử dụng 21.900 tấn xi măng, 6.100 tấn thép, 3.900 m¬3 gỗ; đổ 10 vạn m¬3 bê tông; di chuyển 1.200 hộ dân về khu dân cư mới . Với quyết tâm cao của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự quan tâm chỉ đạo của các bộ, ngành Trung ương, đặc biệt là nỗ lực to lớn của Nhân dân tỉnh nhà, ngày 26/3/1979 công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ được hoàn thành trước thời gian theo dự kiến 3 năm. Điều đáng khâm phục đó là chỉ với cuốc, xẻng và quang gánh - dụng cụ lao động chính của hàng chục vạn dân công trên công trường, cùng điều kiện thời tiết khắc nghiệt của miền Trung, địa hình địa chất phức tạp, điều kiện thi công kỹ thuật công nghệ còn hạn chế, nhưng đã hoàn thành một khối lượng công việc khổng lồ, đưa công trình vượt tiến độ so với kế hoạch. Thành công đó đã thể hiện ý chí, quyết tâm, nỗ lực vượt mọi khó khăn của các lực lượng; thể hiện cho tinh thần sáng tạo, lao động cần cù với tổ chức khoa học, ý thức kỷ luật cao. Từ đây, hơn 30 vạn người dân sống ở khu vực xung quanh Kẻ Gỗ thoát khỏi cảnh hạn hán, lũ lụt, góp phần đem lại mùa màng tốt tươi, đời sống Nhân dân được nâng lên.
Hồ Kẻ Gỗ là thành quả to lớn của thời kỳ đầu xây dựng và phát triển đất nước sau chiến tranh. Công trình không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có giá trị văn hóa, một vùng cảnh quan, sinh thái phục vụ du lịch đã hình thành, trở thành đề tài sinh động của thơ ca, truyện ngắn, âm nhạc, phim ảnh có giá trị. Từ việc xây dựng công trình đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ, chúng ta đã đúc rút được nhiều bài học quý để vận dụng vào thực tiễn xây dựng quê hương, đất nước, đó là:
Đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân là yếu tố quan trọng quyết định thành công. Xây dựng hồ Kẻ Gỗ trong bối cảnh đất nước vừa thống nhất, kinh tế gặp nhiều khó khăn, tập trung sản xuất nông nghiệp, phát huy thế mạnh về đất đai và nguồn nhân lực vốn có là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng sự mong mỏi của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân địa phương qua nhiều thế hệ, do đó được Nhân dân đồng lòng hưởng ứng.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn nhưng chúng ta đã huy động một lực lượng lớn cán bộ, công nhân kỹ thuật, dân công, thanh niên xung phong và các tầng lớp nhân dân đến từ nhiều vùng quê khác nhau tham gia xây dựng công trình, với khát khao cống hiến cho quê hương, đất nước, muốn góp một phần công sức của mình để hoàn thành công trình lịch sử.
Tổ chức lực lượng, phân bổ nguồn lực, điều hành hiệu quả - yếu tố cốt lõi trong quản lý. Việc bố trí đúng người, đúng việc, phân công phụ trách, phân bổ, quản lý nguồn lực, phân chia khu vực lao động trên công trường là yếu tố quyết định thành công của công trình. Thành công trong xây dựng hồ Kẻ Gỗ để lại bài học quan trọng về tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước; về công tác lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý điều hành trên thực tế.
Tinh thần đoàn kết, đề cao kỷ luật, phát huy sáng tạo trong lao động, sản xuất. Quá trình xây dựng hồ Kẻ Gỗ đã giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa phát huy dân chủ, đoàn kết với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, yếu tố quan trọng để phát huy sức mạnh Nhân dân trong toàn tỉnh và lực lượng lao động trên công trường tạo nên sức mạnh tổng hợp của khối liên minh Công - Nông - Trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát huy tính sáng tạo trong lao động, sản xuất, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn, nâng cao năng suất lao động, đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo chất lượng công trình.
Vượt khó, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh tiếp tục vươn lên
Phát huy tinh thần lao động sáng tạo, ý chí, quyết tâm vượt gian khó và từ những bài học kinh nghiệm đúc rút trong quá trình xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ, hơn 45 năm qua, nhất là sau khi tái lập tỉnh (1991), Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh luôn đoàn kết, ra sức thi đua lao động sản xuất, nỗ lực vươn lên đạt được nhiều kết quả nổi bật trên tất cả các lĩnh vực. Từ một tỉnh nghèo, điểm xuất phát thấp, đến nay, đã vươn lên đứng trong nhóm các tỉnh dẫn đầu khu vực. So với những năm đầu tái lập tỉnh, thu ngân sách tăng 1.000 lần; GDP bình quân đầu người tăng 113 lần; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới hiện nay giảm còn 2,4%. Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến tích cực. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được chú trọng , công tác an sinh xã hội được triển khai sâu rộng . Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, hoạt động đối ngoại ngày càng sâu rộng, hiệu quả.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều kết quả quan trọng; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng lên. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được khẳng định; khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, tăng cường. Thực hiện chủ trương về sắp xếp tinh gọn cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được triển khai kịp thời, đúng quy định, phù hợp với thực tiễn.
Hồ Kẻ Gỗ được tu bổ qua các thời kỳ, xây dựng nhiều hạng mục công trình như Cầu vượt, Đền thờ Tổng Bí thư Lê Duẩn, Đền thờ các anh hùng, liệt sỹ trong lòng Hồ, cùng với cảnh quan thiên nhiên hùng vỹ mà nên thơ đã trở thành điểm du lịch sinh thái, du lịch tâm linh thu hút đông đảo du khách gần xa.
Với mục tiêu xây dựng Hà Tĩnh phát triển nhanh và bền vững, trong thời gian tới, cấp ủy, chính quyền và hệ thống chính trị toàn tỉnh tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, quyết tâm khắc phục khó khăn, tập trung thực hiện hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuẩn bị, tổ chức thành công đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành nghị quyết, chỉ thị, kết luận; chú trọng chọn vấn đề chiến lược, đột phá để tháo gỡ nút thắt, khơi thông “điểm nghẽn”, tạo động lực phát triển.
Thứ hai, triển khai quyết liệt, hiệu quả các chủ trương của Trung ương, của tỉnh về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, sáp nhập các đơn vị hành chính. Tập trung chỉ đạo rà soát, đánh giá tổng thể, chủ động xây dựng đề án, phương án, tiến hành sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, sắp xếp các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ đảm bảo theo yêu cầu, tiến độ đề ra. Xây dựng chính quyền địa phương hai cấp hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ. Tiếp tục chỉ đạo sắp xếp tổ chức bộ máy bên trong các cơ quan, đơn vị bảo đảm tinh, gọn, mạnh, tránh chồng chéo về chức năng, không bỏ sót nhiệm vụ. Giải quyết kịp thời chế độ, chính sách cho cán bộ nghỉ hưu trước tuổi, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động dôi dư do sắp xếp, tinh gọn bộ máy; có các phương án xử lý trụ sở, tài sản dôi dư sau khi sắp xếp tổ chức, bộ máy tránh lãng phí.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy và chính quyền các cấp; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Ứng dụng công nghệ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; xây dựng lộ trình đưa toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị lên môi trường số, bảo đảm liên thông, đồng bộ; nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế, chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài phục vụ các ngành, lĩnh vực chủ chốt thúc đẩy sự phát triển. Phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, trí tuệ, bản lĩnh con người Hà Tĩnh. Chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ, văn hóa công sở. Tạo môi trường thuận lợi để cán bộ, công chức, viên chức làm việc, cống hiến, phát triển.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững; khơi thông và phát huy tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư, phát triển, nhất là nguồn lực trong Nhân dân; đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; tập trung phát triển công nghiệp theo chiều sâu, tạo mọi điều kiện để các dự án trọng điểm hoàn thành và đi vào hoạt động, tạo động lực tăng trưởng mới, bổ sung nguồn thu ngân sách. Đẩy mạnh liên kết vùng, cơ cấu lại không gian phát triển; lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, trọng tâm là chuyển đổi số làm động lực chủ yếu. Nâng cao năng suất, giá trị sản xuất nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới. Phát huy vai trò khu vực kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Thứ năm, phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của quê hương, quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, dòng họ, làng xã, trường học, công sở, doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục và đào tạo; chất lượng khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế. Khai thác các giá trị, di sản văn hóa, nhất là các di sản được UNESCO vinh danh; phát huy giá trị của hồ Kẻ Gỗ, các danh lam thắng cảnh trên địa bàn để phát triển du lịch, dịch vụ. Tiếp tục huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực đảm bảo an sinh xã hội; đẩy mạnh chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát; thực hiện tốt các chính sách với người có công; hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người nghèo.
Thứ sáu, tiếp tục củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường, củng cố mối quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống với các địa phương nước bạn Lào; đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại gắn với quảng bá hình ảnh, xúc tiến đầu tư và thương mại.
Hòa chung vào những đổi thay to lớn, mang tính lịch sử của dân tộc Việt Nam, phát huy truyền thống văn hóa, cách mạng của quê hương, tinh thần kiên cường, vượt khó và những kinh nghiệm huy động sức dân trong xây dựng công trình hồ Kẻ Gỗ, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh nỗ lực, quyết tâm cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên thịnh vượng và phát triển.
Nguyễn Duy Lâm
Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh
Trang 5 / 7